Ta vẫn còn nhớ rõ, ngày phụ thân và mẫu thân bỏ trốn, trời trong nắng đẹp. Mặt trời lười biếng treo lơ lửng trên cao, nhưng ta chỉ dám co ro trong góc tường âm u, chẳng khác nào một con chuột bị người ta ghét bỏ. Ta thực sự quá đói, vì thế vô thức bước ra khỏi nhà. Đi đến chợ, ta lén lút nhìn về phía quầy hàng thịt heo, nơi nữ nhân kia đang đứng. Trước đây, ta và mẫu thân từng nhiều lần lén nhìn nàng. Nàng họ Tưởng, không con không cái, người trong chợ thường gọi nàng là Tưởng Đại Tẩu, nhưng sau lưng lại gọi nàng là Tưởng Đại Trùng. Nàng chính là chính thất của phụ thân ta, còn phụ thân ta là kẻ ở rể nhà nàng. Mẫu thân ta là người phụ thân qua lại bên ngoài, nhưng nói đúng ra, bà thậm chí chẳng được tính là thiếp thất, vì phụ thân vốn là kẻ ở rể, không có tư cách nạp thiếp. Hai người họ vụng trộm qua lại, sinh ra ta, rồi lại sinh thêm đệ đệ. Mẫu thân thường dẫn ta bám theo sau phụ thân, nhìn ông ấy vòi tiền từ nàng. Phụ thân ta là một thư sinh, trước mặt nàng chẳng khác nào một con gà con gầy gò yếu ớt, vậy mà lần nào cũng lấy được tiền. Người trong chợ đều nói nàng là kẻ ngốc, đầu óc đơn giản, một người thô lỗ lại đi thích thư sinh. Ngày thường dữ dằn như một con hổ cái, nhưng trước mặt phụ thân ta lại chẳng có lấy nửa phần khí thế. Bây giờ nam nhân ấy đã chạy theo tình nhân, nàng lại càng chẳng thể ngẩng đầu. Ta ngồi xổm cách quầy thịt của nàng ba trượng, từng chút từng chút một dịch đến gần. Có người trong chợ thấy thế, cười cợt hỏi ta: "Phụ thân ngươi chạy mất rồi, sao còn ở đây?" Ta im lặng, chỉ lặng lẽ dịch lại gần thêm chút nữa. Lúc đầu, nàng hung dữ trừng ta, ta cúi đầu, không dám đối diện với ánh mắt ấy. Sau đó, nàng coi ta như không khí, chẳng buồn để tâm. Có lần nàng vô ý tính thiếu tiền thịt cho khách, ta lên tiếng nhắc nàng, nhưng nàng cũng chẳng phản ứng. Gương mặt nàng lúc nào cũng lạnh lùng, bàn tay cầm con dao lọc xương không ngừng xẻ thịt. Hôm ấy, một con chó hoang bất ngờ lao tới, ngoạm lấy một khúc xương rồi chạy mất. Không hiểu sao, ta đột nhiên bật người lên, gào một tiếng, lao theo nó, giằng co với con chó ngay giữa chợ. Mọi người trố mắt kinh ngạc, sau đó cười ồ lên thích thú. Tưởng Đại Tẩu nhíu chặt đôi mày rậm, bực bội quát: "Cút!" Ta vô định lang thang trên phố, nhìn thấy rất nhiều tiểu ăn mày vô gia cư, đứa nào đứa nấy cũng trạc tuổi ta. Nghe nói phía trước chiến loạn đang nổ ra, chẳng mấy chốc sẽ lan đến nơi này, vì vậy nhiều người đã bỏ chạy. Những gia đình đông con, đứa nào trở thành gánh nặng thì bị vứt bỏ. Gánh nặng thì phải vứt đi. Ta đói đến cồn cào, nhưng vẫn không đụng vào khúc xương giành được. Trời còn chưa sáng, ta đã đem khúc xương đặt lên thớt của nàng. Vương Tam Nương bán đậu phụ dậy sớm, nhìn thấy vậy, không khỏi chậc lưỡi cảm thán: "Con nhóc này sao chẳng giống cha nó chút nào." Một lát sau, nàng xuất hiện, vai vác nửa con lợn, tay cầm dao lọc xương. Ta hơi căng thẳng, ánh mắt nàng lướt qua khúc xương trên thớt, nhưng không biết có thực sự nhìn thấy hay không. Suốt cả ngày hôm ấy, nàng vẫn như thường lệ—lọc thịt, cân thịt, bán thịt, đếm tiền... Khúc xương kia cứ thế nằm im lìm trên thớt, giống như một mảnh rác bị lãng quên. Ta cúi đầu, càng lúc càng thấp. Đến tận hoàng hôn, sau khi bán hết thịt, trước khi rời đi, nàng lạnh lùng nhặt khúc xương lên, tiện tay ném vào giỏ. Ngay lập tức, ta ngẩng phắt đầu, nhìn theo bóng lưng vững chãi như cột sắt của nàng khuất dần. Ta cũng "vèo" một cái, lao ra khỏi chợ. Ở đó có một quán mì ven đường. Ta đứng một bên chờ đợi, đôi mắt tràn đầy khát vọng, sáng lên như dã thú đói, chằm chằm nhìn vào thùng đựng nước súp thừa. Ta biết, trong đó là chút nước súp còn sót lại sau cả ngày bán hàng, nếu may mắn, có khi còn vớt được một, hai sợi mì bị bỏ quên. Ta cũng biết, phải đợi đến khi chủ quán thu dọn xong, ta mới có thể lại gần, bởi lẽ không thể quấy rầy việc làm ăn của họ. Cuối cùng, ta được một bữa nước súp no nê, còn chầm chậm thưởng thức hương vị béo ngậy của từng giọt dầu nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Sau đó, ta ra bờ sông, kỳ cọ sạch sẽ thùng nước súp rồi mang trả lại cho chủ quán. Họ không dư dả gì, chỉ dựa vào quán mì nhỏ bé này để nuôi sống cả nhà năm miệng ăn. Nhưng từ hôm ấy, chủ quán dặn người nhà đừng vứt những tấm giẻ lau bàn bẩn thỉu vào thùng nước súp nữa. Đó là một chút thiện ý nhỏ bé mà ông ấy dành cho một đứa trẻ năm tuổi như ta. Tiếc rằng, ta chẳng thể tận hưởng được thiện ý ấy bao lâu. Thùng nước súp bị mấy tên tiểu ăn mày khác để mắt tới. Chúng nhào vào cướp, đẩy ta ngã nhào xuống đất. Ta mới năm tuổi, vóc dáng không cao bằng chúng, sức lực càng chẳng thể so được, chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn chúng tranh nhau vét sạch những gì còn lại trong thùng. Chúng còn giơ nắm đấm dọa nạt, không cho phép ta xuất hiện ở đây nữa. Cả người ta bầm tím, đau đến rát buốt. Nhưng dù có đau thế nào, cũng không thể chống lại cơn đói cồn cào trong bụng. Ban đêm, ta nằm trong căn nhà xiêu vẹo, gió lùa bốn phía, vươn tay rút một cọng rơm trên mái, bỏ vào miệng nhai. Lại không ngờ, có một chút ngọt.   2. Ban ngày, ta vẫn đến nhìn nàng bán thịt. Lúc đó còn nhỏ, ta chẳng hiểu vì sao mình lại cố chấp, đi cả một quãng đường dài chỉ để đứng nhìn nàng. Sau này nghĩ lại, có lẽ chính dáng vẻ mạnh mẽ của nàng khi vung dao mổ lợn đã khiến một kẻ cô độc như ta bớt sợ hãi giữa nhân gian rộng lớn này. Nàng vẫn không để ý đến ta. Những người xung quanh dù chỉ trỏ bàn tán nhưng cũng không ai lại gần, càng không muốn kết thân với một đứa trẻ gầy còm, rách rưới như ta. Họ sợ ta bám lấy không buông. Thời buổi này, ai nấy đều sống chật vật, thêm một miệng ăn cũng là gánh nặng lớn. Ta nhặt một cành cây lên, vô thức đưa vào miệng muốn cắn, nhưng cứng quá, chẳng nhai nổi. Thế là ta dùng nó để vẽ chữ lên mặt đất. Thực ra, ta còn biết tính toán nữa. Những lúc phụ thân tâm trạng tốt, ông từng dạy ta chữ nghĩa, ta học rất chăm chú. Mỗi lần thấy ta viết chữ, ông đều khen ta có thiên phú. Nhưng đệ đệ của ta thì ngốc nghếch hơn nhiều, nó chẳng thích học chữ, suốt ngày chỉ biết khóc lóc, mè nheo. Ấy thế mà lúc phụ thân và mẫu thân bỏ đi, họ vẫn chỉ mang theo nó—đứa bé vừa ngốc vừa lười, lại chẳng chịu nghe lời. Có người đi ngang qua, bất ngờ thốt lên: "Ôi chao, con nhóc này còn biết viết chữ nữa kìa!" Ta liếc mắt thấy Tưởng Đại Tẩu khẽ nhấc mí mắt, liếc nhìn ta một cái. Thế là ta càng cố gắng viết chăm chỉ hơn. Ngay sau đó, có một bé gái trạc tuổi ta cũng tò mò ghé lại gần. Nàng là cháu gái của chủ quầy kẹo đường ngay bên cạnh. Nàng ngồi xổm xuống cạnh ta, vừa ăn kẹo đường vừa nhìn ta viết. Nửa viên kẹo trong tay nàng thơm ngọt lịm, lan tỏa hương vị mê hoặc. Ta nuốt nước bọt mấy lần. Chắc hẳn cho vào miệng sẽ ngọt đến tê lưỡi… Nếu ta có thể ăn một miếng… Không, chỉ cần liếm một cái thôi cũng được. Trước đây, mẫu thân cũng từng mua kẹo đường cho đệ đệ. Nhưng mỗi lần như thế, ta chỉ có thể lén nhặt lấy que tre mà nó vứt đi, rồi cẩn thận mút lấy chút vị ngọt còn sót lại. Sau khi đã biết được hương vị của kẹo đường, dù có trở về nhà nhai rơm trên mái, ta cũng không sao nhai nổi, mà cũng chẳng thể no bụng. Không lâu sau, ta lại chạy đến quán mì ven đường. Thế nhưng quán đã dọn hàng từ lâu, còn ta thì không may bị bọn tiểu ăn mày phát hiện… Bọn chúng nói đây là địa bàn của chúng, ta dám xuất hiện thì phải chịu đòn. Lần này, chúng đánh rất nặng tay. Mặt trời dần ngả về Tây, thứ ánh sáng yếu ớt chẳng đủ soi rọi cả nhân gian. Ta co ro trên con đường nhỏ, bất động, chỉ là một thân hình bé nhỏ, lọt thỏm giữa đất trời, chẳng ai để ý tới. Có lẽ, nếu lúc này có một chiếc xe ngựa chạy qua, ta cũng sẽ giống như một con mèo hoang, bị nghiền nát mà chẳng ai hay. Khi tia sáng cuối cùng sắp tắt, một bóng dáng vạm vỡ xuất hiện ở đầu con hẻm, đứng ngược sáng. Nàng không nói một lời, nhấc bổng ta lên, vác ta trở về nhà. Nàng mớm cho ta vài ngụm canh thịt, thơm quá… Đôi mắt ta mở to tròn, đầy ngạc nhiên. Ba ngày sau, ta đã có thể xuống giường. Nàng vẫn không nói chuyện với ta, có lẽ vì không biết phải nói gì, hoặc cũng có thể do bản tính vốn ít lời. Nàng mà mở miệng, thường cũng chỉ là để mắng người. Nhưng cơm nàng nấu, thật sự rất ngon! Nàng dùng mỡ lợn rang gạo lứt cho đến khi hạt cơm chuyển màu vàng óng, mềm dẻo, ta ăn đến mức môi bóng nhẫy. Nàng còn biết nướng bánh, để nguội rồi xé nhỏ thành từng miếng, thả vào bát canh xương hầm đậm đà, một bát nhỏ thôi mà ta ăn đến no căng bụng. Ta bắt đầu theo nàng ra chợ bán thịt. Ngồi trên chiếc ghế con phía sau nàng, mỗi lần có người đến mua thịt, nàng cân đủ trọng lượng, ta sẽ lanh lảnh đọc ra số bạc phải trả. Ban đầu, nàng không tin một đứa trẻ con như ta lại biết tính toán. Nhưng sau vài lần kiểm tra kỹ, nàng phát hiện ta tính nhanh và chính xác không sai một li. Từ đó, ta bắt đầu giúp nàng ghi sổ. Ngoài tính toán, ta còn có thể làm rất nhiều việc khác. Khi trời nắng gắt, nàng dùng trúc và vải bạt dựng một mái che đơn giản, ta đứng bên cạnh, cẩn thận giữ lấy cột trụ cho nàng. Ta còn cầm một cây gậy buộc dải vải đỏ ở đầu, suốt từ sáng đến tối vung vẩy để đuổi ruồi. Có lúc trời bỗng đổ mưa, từng cơn ào ạt trút xuống. May mà phía trên có mái che tạm bợ, nàng kịp gom hết số thịt chưa bán xong, bọc lại cẩn thận. Còn ta và nàng thì ướt như chuột lột. Về đến nhà, nàng đi nấu canh gừng. Ta sợ cay, không muốn uống, liền bị nàng quát lớn. Nhưng rồi nàng lại lặng lẽ xoay người, xúc một thìa đường đỏ từ hũ nhỏ bỏ vào bát ta. Ta chóp chép miệng, cố gắng tìm chút vị ngọt ít ỏi trong thứ nước cay nồng, cảm thấy vừa đau vừa vui. Cứ như thế, từng ngụm từng ngụm, ta uống hết cả bát canh gừng. Đêm hôm ấy, sấm chớp đùng đoàng, ta ôm chăn chui tọt vào phòng nàng. Nàng ngủ rất say, ta len lén tìm một góc trên giường, rón rén nằm xuống. Bên ngoài vẫn là cuồng phong sấm giật, nhưng trong tiếng ngáy đều đặn của nàng, ta không còn cảm thấy sợ hãi nữa. Rất nhanh, ta chìm vào giấc ngủ. Sáng hôm sau, nàng tỉnh dậy, trừng mắt nhìn ta, ta cũng tròn xoe mắt nhìn lại. Sau một khắc lúng túng, nàng quay đầu đi, rồi đứng dậy làm điểm tâm. Nhưng nàng không đuổi ta về phòng cũ, thế là ta nhân cơ hội, tiếp tục ở lại, ngủ chung giường với nàng. Khi còn rất nhỏ, ta cũng từng ngủ cùng mẫu thân. Nhưng từ khi có đệ đệ, mẫu thân không cho ta ngủ cùng nữa. Mỗi đêm, khi mẫu thân kể chuyện cho đệ đệ, ta chỉ được phép ngồi ở mép giường nghe theo. Đợi đệ đệ ngủ say, mẫu thân sẽ gọi ta dậy, bảo ta ra gian phòng nhỏ bên ngoài ngủ. Giọng mẫu thân lúc nào cũng dịu dàng, chẳng giống nàng chút nào, suốt ngày lớn tiếng quát tháo. Mẫu thân luôn nhẹ nhàng dặn dò ta phải chăm sóc tốt cho đệ đệ, mọi thứ đều phải nhường nó trước tiên. Mẫu thân nói, sau này lớn lên, ta cũng phải giúp đỡ đệ đệ. Phụ thân cũng hiền hòa như vậy. Ông từng nói, đợi đến khi ông thi đậu cử nhân, cả nhà chúng ta sẽ được ăn ngon mặc đẹp, không cần nhìn sắc mặt của con hổ cái kia mà sống nữa. Nhưng ta còn chưa đợi được ngày phụ thân đỗ đạt, cũng chưa kịp trưởng thành, họ đã quyết định vứt bỏ ta, nói bỏ là bỏ…