Trác Tư Niên thi đỗ trạng nguyên, đội ngũ báo tin mừng đánh trống khua chiêng, rộn ràng đưa tin vui về tận trước cửa nhà. Hàng xóm láng giềng kéo nhau đến chúc mừng, đến cả mụ mối chuyên cầm quạt cũng nghe tin mà tìm đến, cười nói nịnh nọt: “Sau này Từ Quân sẽ là mệnh phụ quan gia rồi! Công tử Trác thật có tiền đồ!” Ta cười đến lộ cả hàm răng, lòng vui như mở hội. Bao năm đèn sách gian nan, rốt cuộc Trác Tư Niên cũng có ngày ngẩng đầu với thiên hạ. Nhưng hắn lại thản nhiên nhìn ta, chắp tay nói: “Đa tạ nàng đã bên ta suốt sáu năm. Nếu có điều gì muốn, cứ nói thẳng, ta sẽ cố gắng đáp ứng.” Ta và Trác Tư Niên bên nhau đã sáu năm. Nguyện vọng lớn nhất trong đời ta là được gả cho hắn, làm vợ danh chính ngôn thuận. Ngày ấy, A Thành từng khuyên ta đừng tùy tiện nhặt về một người đàn ông. “Người để bị nhặt, thì còn là nam tử tốt gì nữa?” Nhưng ta vẫn nhặt hắn về. Hắn chăm chỉ đọc sách, ta bôn ba ngoài chợ, gom từng đồng bạc mua sách cho hắn. Hắn cần đề thi cũ để luyện, ta tìm người, bỏ tiền để dò hỏi xin về cho bằng được. Ta nghĩ, chỉ cần thật lòng đối tốt với hắn, sớm muộn gì cũng cảm động được lòng người. Nhưng Trác Tư Niên không thích ta. Người hắn yêu là cô nương Ngân Tư, bạch nguyệt quang của hắn – một tài nữ nổi danh khắp Thịnh Thành, từng câu từng chữ đều có thi vị, mỗi ánh mắt cười đều toát ra phong vận thơ ca. Ngân Tư cô nương dịu dàng đoan trang, lại thông tuệ thi thư, mỗi câu mỗi chữ đều như thơ như họa. Mỗi lần Trác Tư Niên ngâm thơ, nàng đều có thể nối vần ngay lập tức, lời ra thanh thoát, tựa như sớm đã thuộc lòng thiên hạ thi văn. Ta cũng cặm cụi học theo, lật đi lật lại không biết bao nhiêu lần, rốt cuộc cũng ngộ ra một chút thi hứng, bèn phóng bút làm thơ. “Đi cũng ăn cơm, ngồi cũng ăn cơm. Người sống trên đời, chẳng bằng ăn cơm.” Chưa kịp đề xong nét cuối, Trác Tư Niên và Ngân Tư cô nương đã nghe được. Ngân Tư khẽ cười, dùng khăn tay che miệng, ánh mắt chứa đầy giễu cợt: “Thơ như vậy, chẳng phải là cơm nguội sao?” Trác Tư Niên cau mày, mặt sa sầm vì xấu hổ, quay sang quở trách ta: “Từ Quân, không biết làm thơ thì đừng cố gượng gạo. Mất mặt!” Ngân Tư nghiêng người, giọng uyển chuyển như suối chảy: “Ca ca Tư Niên, bệ hạ còn muốn trọng dụng huynh nữa đấy. Từ Quân chắc cũng không muốn làm lỡ tiền đồ của huynh, đúng không?” Trác Tư Niên sắc mặt lạnh băng, không nói lời nào. Hắn bây giờ đã là trạng nguyên, danh vọng như mặt trời ban trưa, người tới cầu thân nối đuôi nhau không dứt. Hắn sợ ta đi theo lên kinh, sợ người khác biết hắn có một thê tử xuất thân từ nhà buôn thấp hèn. Còn đâu dáng vẻ khi xưa, lúc hắn hấp hối bên bãi tha ma, tay run rẩy kéo áo ta, năn nỉ: “Cứu ta, ta không muốn chết…” Giờ đây hắn đã khác xưa, oai phong rạng rỡ, tài mạo song toàn. Còn ta, chỉ là một bóng dáng không hợp thời. Trác Tư Niên không muốn, mà ta cũng không còn muốn níu kéo. Dưa hái ép, chỉ có vị đắng. Mà đã đắng, thì nuốt cũng chẳng trôi — đến cả ăn cơm cũng chẳng còn thấy ngon miệng nữa. Ta ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt hắn, chậm rãi mở lời: “Vì giúp chàng mà A Thành bị bắt giam. Ta muốn chàng cứu đệ ấy ra.” Trác Tư Niên sững người, im lặng một lúc rồi gật đầu, xem chừng đang suy tính chuyện của A Thành. Hắn đi tìm huyện lệnh xin người. Quả nhiên, kẻ đỗ trạng nguyên có thể diện, chỉ một câu nói, A Thành liền được thả ra. Ngân Tư cô nương sốt ruột thúc giục Trác Tư Niên lên đường, nói hoàng ân không thể trì hoãn. Trác Tư Niên ngoái đầu nhìn ta một cái, ánh mắt phức tạp, nhưng không nói gì. Xe ngựa chở trạng nguyên dần khuất bóng nơi cuối con đường, đám đông xung quanh cũng lặng lẽ tản đi. A Thành biết ta đã dùng hôn ước đổi lấy một mạng sống cho đệ ấy, nước mắt vòng quanh, không dám nhìn ta: “Từ Quân tỷ… đệ làm phiền tỷ rồi… Đệ chỉ là một tên ăn mày…” Ta khẽ lắc đầu, dịu dàng đáp: “A Thành, nếu đệ bằng lòng, thì hãy ở lại, giúp ta lo chuyện làm ăn.” Năm xưa, Trác Tư Niên từng chê A Thành là kẻ trộm vặt, sống bám vạ đầu đường xó chợ, sống chết cũng không cho đệ ấy đụng vào việc buôn bán. Ta cúi xuống, nhìn thẳng vào mắt A Thành, nở nụ cười nhẹ: “Từ nay, đệ có nhà rồi.” A Thành nghẹn ngào, nước mắt lưng tròng, do dự mãi vẫn chưa dám nhận lời: “Nhưng mà… nếu ca ca Tư Niên giận, kéo theo tỷ bị liên lụy, thì sao?” Ta xoa đầu đệ ấy, cười thật hiền: “Vậy thì ta cũng có nhà rồi.” Ánh nắng đầu trưa chiếu xuống mái ngói cũ, gió nhẹ phất qua hiên nhà, lòng ta nhẹ bẫng như được đặt xuống. Ta ngẩng đầu nhìn bầu trời trong xanh, rồi bảo A Thành vào thư phòng chuyển đống sách. Nhà còn rất nhiều sách cũ, ta định mang đi quyên tặng cho tư thục trong thôn. Có lẽ, sẽ có một đứa trẻ khác như Trác Tư Niên năm xưa, từ một bãi tha ma bước ra, nương theo ánh sáng tri thức mà đổi đời. Nhưng lần này… ta không đổi cả trái tim mình nữa.   2. Suối chảy róc rách, ve kêu râm ran, vang vọng giữa ngày hè oi ả. Ta lại… nhặt được một nam nhân. A Thành khẽ rụt vai, nhăn mặt như bị ai nắm tóc: “A tỷ ơi, đàn ông nhặt ngoài đường đều không phải hạng tốt đâu!” Ta đứng lại, nhìn người nọ đang nằm sõng soài giữa đường, cả người be bét máu, chẳng rõ sống chết. A Thành lẽo đẽo sau lưng ta, vừa đi vừa lầm bầm: “Đệ nghe nói trước kia có một vị tỷ tỷ cũng nhặt được nam nhân trong sa mạc. Ai ngờ hắn lại là hoàng đế nước láng giềng, sau này diệt sạch cả tộc nhà tỷ ấy! Bi thảm vô cùng!” Ta giật mình: “Thật á? Tàn bạo vậy sao?” Ta do dự, cúi người lật kẻ đang nằm sấp kia lại. Nếu còn sống, thì cho thuốc rồi thôi, dù gì cũng chẳng muốn mang họa vào thân. “Lấy thuốc đi, A Thành. Hắn còn thở.” Ta bóp cằm hắn, nhét thuốc vào miệng, ép cho nuốt xong, xoay người định rời đi. Nhưng cổ tay bỗng bị ai đó nắm chặt. “Cô nương… cứu ta…” Giọng nói yếu ớt, hơi thở mong manh. Ta khẽ cau mày, thật muốn từ chối thẳng thừng — dấu hiệu rõ rành rành, đồ nhặt về chẳng cái nào nên thân. Ta nhấc chân toan bước tiếp, sau lưng vẫn vẳng lên tiếng gọi bền bỉ: “Ta… ta có tiền… rất nhiều tiền… khụ khụ…” Ta lạnh nhạt nghĩ bụng: Ta cũng có tiền. Tự tay ta kiếm, không cần dựa ai cả. Vừa định đi hẳn, bỗng phía sau im lặng đến khác thường. Rồi một câu nhẹ như gió, khẽ chạm vào lưng ta: “Cô nương, nếu nàng quay lại nhìn ta… ta không tin, nàng có thể vô cảm mà rời đi.” Ta quay đầu lại vì tò mò, vừa nhìn liền sững người trong chốc lát. Không biết do ánh mắt hắn hay khuôn mặt như tranh vẽ, mà lòng ta khẽ chùng xuống. Bàn tay ta đổi thế, đỡ lấy cánh tay hắn, giọng cũng nhẹ hẳn: “Đi thôi, về nhà với ta.” Nhà ta chỉ có một người. Tiền bạc không nhiều, nhưng đủ ăn no mặc ấm. Một người có gương mặt tuấn tú đến thế, nếu sau này có cãi nhau, nhìn thấy mặt hắn rồi, biết đâu lại nguôi giận mất nửa. Nam nhân khẽ cười, mắt cong như trăng non: “Tại hạ họ Diệp, tên Bắc Hòa. Đa tạ cô nương cứu giúp.” Nụ cười ấy vừa nho nhã lại vừa nhu hòa, đẹp đến mức khiến người ta muốn dùng hết sức lực trên đời để bảo vệ. Trời mùa hạ oi nồng, nắng rọi qua kẽ lá đọng trên vai hắn, sáng đến chói mắt. Ta liền nghiêng người, khéo léo đưa hắn về phía râm mát. “Ta tên là Từ Quân. Ngươi biết làm thơ không?” “Hơi hơi biết một ít.” “Biết tính sổ sách chứ?” “Cũng biết một chút.” Ta nhìn hắn, bỗng dưng thấy thích thú. Người vừa biết làm thơ, lại biết tính toán, nhìn kỹ còn thuận mắt… “Vậy ngươi… có chịu gả cho ta không?” Diệp Bắc Hòa ngẩn người, chớp mắt mấy cái rồi hỏi lại: “Cô nương… đây là đang mua người về sao?” “Cũng coi như vậy.” Ta nghiêm túc gật đầu. “Ta vừa mới chết phu quân. Giờ thành tâm tuyển một vị…”