Phụ thân ta là đầu bếp nổi danh khắp mười dặm tám thôn, hễ nhà ai có chuyện hỷ hay chuyện tang, đều thích mời người đến chấp chưởng bếp núc. Năm ta tròn năm tuổi, mẫu thân lâm bệnh qua đời. Phụ thân liền đặt ta ngồi trong chiếc nồi lớn, đẩy theo trên xe gỗ, cùng người rong ruổi khắp làng trên xóm dưới, nấu tiệc dựng mâm. Nếu là tiệc hỷ, phụ thân sẽ buộc cho ta hai búi tóc nhỏ, cột thêm hai sợi dây đỏ rực, ta liền từ xe nhảy xuống, học theo dáng vẻ người lớn mà chúc mừng: “Chúc mừng, chúc mừng, trăm năm hảo hợp.” Chủ nhà nào rộng lượng vui vẻ sẽ cười tươi như hoa, dúi vào tay ta một xâu tiền đồng rồi bảo: “Đứa nhỏ này thật có tướng mạo vui mắt, lát nữa ra bàn bọn trẻ mà ngồi.” Còn nếu gặp tang sự, phụ thân dặn ta không được lên tiếng. Ta chỉ nấp yên trên xe, ôm lấy chiếc bát con, lặng lẽ đợi chờ. Ánh lửa từ bếp lò phản chiếu gương mặt phụ thân đẫm mồ hôi. Một tay người giữ chặt quai nồi, tay kia cầm chiếc xẻng sắt đen nhánh bóng loáng, mạnh mẽ vung lên, cả chảo thức ăn lập tức "xoạt" một tiếng bốc lên giữa không trung, rồi lại rơi xuống nồi một cách vững vàng. Khi dọn món, người sẽ dùng muôi lách một bên, xới ra hai miếng thịt kho tàu đỏ au đặt vào bát nhỏ của ta. Ta sốt ruột cắn ngay, thịt mềm tan, nóng hổi, hương sốt mặn ngọt lan khắp khoang miệng, thơm lừng đến tận óc. Tiếp đó còn có rau xào ngó sen, gà nếp hấp lá sen, thịt chua ngọt,... Ta chẳng khác nào con chuột nhỏ, hai má phồng lên nhồi đầy thức ăn. Về sau lớn thêm một chút, ta đã có thể giúp phụ thân chuẩn bị nguyên liệu. Dù là tám món hấp hay mười tám món nguội nóng, ta cũng có thể phân loại rõ ràng, cắt thái đầy đủ, mọi thứ đều sẵn sàng trước khi phụ thân nổi lửa. Ấy vậy mà, năm ấy gần đến cuối năm, có chuyện chẳng lành xảy ra nơi yến tiệc. Phủ nhà họ Chu mở tiệc đầy tháng, trên dưới cả phủ cùng cả trăm khách khứa đều bị đau bụng. Họ nhất mực khẳng định phụ thân ta đã hạ độc vào trong món ăn. Hôm đó ta cũng lén ăn kha khá món vặt, rồi chạy đi chạy lại nơi nhà xí. Người trong Chu phủ đông đúc lộn xộn, chẳng ai để tâm tới một tiểu nha đầu như ta. Khi ta hay tin, vội vã chạy đến nơi, phụ thân đã bị trói chặt tay chân, kẻ khác dùng dây mây gai nhúng nước muối mà quất thẳng lên người người. Bọn họ tra hỏi phụ thân ta có giở trò mờ ám gì chăng. Phụ thân khẽ lau vết máu nơi khóe miệng, đáp một câu đanh thép: “Ta chỉ là kẻ thô phu dựa sức kiếm ăn, sống qua ngày đoạn tháng, có thể mưu mô được điều chi?” “Trên đời này, nào có ai mong khách khứa ăn uống thỏa lòng hơn ta?” Trên đường chạy tới, ta cứ nghĩ mãi: khẩu vị mỗi người mỗi khác, nếu thật có ai hạ độc, phải ra tay nơi nào thì mới khiến trăm người đều trúng? Thở không ra hơi, ta gắng kêu lên: “Là nước… nước có vấn đề!” Một ánh mắt sắc lạnh của lão gia nhà họ Chu quét tới, lập tức có gia đinh xông lên bịt chặt miệng ta. Ta giãy giụa vùng ra, tự tay múc một bát nước từ giếng, ấn đầu con mèo hoang bên tường mà dốc cho nó uống. Chưa đến một khắc sau, con mèo ấy đã lăn ra, sùi bọt mép, co giật không thôi. Nghe nói sau đó, quản gia Chu phủ mới chịu bước ra, cúi đầu nhận tội. Lại thêm một oan hồn uổng tử nơi cõi thế này...   2. Phụ thân ta dù giữ được một mạng, nhưng thân thể đã chẳng còn nguyên vẹn. Lưng người là nơi thương tích nặng nhất, lúc được khiêng về, da thịt và áo vải đã dính liền thành một thể. Vậy mà tiểu thúc ta – Cao Phú – vẫn thản nhiên ngồi bên, bưng bát cơm ăn như chẳng có chuyện gì xảy ra. Tiểu thúc đã ngoài ba mươi, chưa cưới vợ. Ông nội bà nội sớm quy tiên, chỉ để lại một người em trai là hắn. Phụ thân ta thương hắn lắm, những món thịt cá dư lại từ tiệc tùng đều gói ghém đem về cho hắn. Thỉnh thoảng còn dúi cho chút bạc vụn tiêu vặt. Thế nhưng lòng người, càng cho lại càng thấy chưa đủ. Vài năm trước, hắn mặt dày đến tận cửa, há miệng xin phụ thân ba mươi lượng bạc để cưới vợ. Khi ấy mẫu thân ta trọng bệnh, thuốc thang uống như nước lã, phụ thân dĩ nhiên chẳng thể đáp ứng, liền thẳng thừng cự tuyệt. Từ đó hắn liền ra ngoài rêu rao, nói phụ thân ta là hạng vong ân phụ nghĩa, trơ mắt nhìn em ruột cả đời cô đơn không vợ. Tiếng rên đau đớn của phụ thân ta như ống bễ rách, từng hồi đứt quãng, khiến lòng ta thắt lại như bó lạt ngâm nước. Mà tiểu thúc vẫn ngồi một bên, miệng lải nhải chẳng ngơi: “Tiếc mấy đồng bạc không chịu giúp ta cưới vợ, giờ cũng phải tiêu đi bằng cách khác thôi.” “Lúc trước cha mẹ còn sống, cứ khen huynh có tiền đồ hơn ta. Giờ thì sao? Có giỏi mấy cũng chỉ là một kẻ bạc mệnh nằm chờ chết.” “Huynh à, dáng nằm co quắp kia… nhìn chẳng khác gì một con chó chết bị quăng lên kệ gỗ.” Thì ra, miệng lưỡi nam nhân lắm khi cũng cay nghiệt chẳng kém gì phụ nhân! Ta nhặt lấy một viên sỏi nhỏ, giả bộ cúi mình chỉnh lại vạt áo, tay khẽ kẹp viên đá, búng “vút” một cái, bay thẳng vào bát cơm của tiểu thúc. Hắn sửng sốt, ngẩng đầu chửi rủa: “Ủa? Trên trời sao lại rơi đá xuống thế này!” Vừa mới nhặt viên sỏi ném ra ngoài, thì một con sẻ nhà xẹt qua trên đầu – con vật nhỏ kia mắt tinh chẳng kém – “bốp” một tiếng, để lại một bãi phân vào đúng cái bát hắn đang ăn. Hầy! Thật khoái chí. Về đến nhà, ta cắt áo phụ thân ra bằng kéo, rắc thuốc kim sang lên miệng vết thương, đau đến mức phụ thân siết chặt mép giường, tiếng gỗ rên lên “kẽo kẹt” từng hồi. Nhưng họa vô đơn chí. Nhà họ Triệu – nơi đã đính hôn cùng ta – vừa nghe tin phụ thân gặp chuyện, lập tức trong đêm kéo tới, ép lui mối hôn. Ngày trước, bà mối hết lời khen ngợi: “Con bé Nhạn nhi tay chân lanh lẹ, biết đỡ đần bếp núc, giở nồi xào chảo chẳng thua kém gì ai, quả là mẫu người giỏi lo liệu cuộc sống.” “Huống hồ gương mặt tròn trịa, cằm đầy trán rộng, tướng mạo phúc hậu, nhìn qua đã biết là mệnh vượng phu ích tử.” Giờ đây, mụ mẹ chồng tương lai lại vênh váo sỉ nhục: “Con bé Cao Thu Nhạn kia ấy à, cây kim thêu cầm không nổi, đến Tam Tự Kinh cũng đọc không xong, thô tục dốt nát chẳng thể gả vào cửa nhà ta được!” “Lại còn cái gò má kia, nhô cao tận trời! Cổ thư có nói, đàn bà gò má cao, sát phu không cần dao đấy!” Triệu Hữu Tài – vị hôn phu của ta – co ro phía sau như đứa trẻ chưa cai sữa, chỉ biết kéo tay áo mẹ, thì thào: “Mẫu thân, đừng nói nữa… đã muốn lui thân thì cứ nói rõ, cần gì phải nhục mạ nàng.” Đối với Triệu Hữu Tài, ta thật chẳng có bao nhiêu tình cảm. Mối hôn này là do phụ thân ta vừa ý. Người nói: “Gả chồng, chính là gả cái ăn cái mặc.” Nhà họ Triệu chỉ có một mình hắn là độc đinh, sau này dẫu hắn có đỗ đạt làm quan hay trở về nối nghiệp gia tộc, thì bụng cũng không đến mức đói. Mụ Triệu thị lại nổi tiếng là người cưng con, gả đến nhà ấy, thể nào cũng được sống an nhàn sung sướng. Ngày gặp mặt, bất kể ta nói gì, lời đầu tiên hắn thốt ra luôn là: “Mẫu thân ta bảo rằng…” Ta hỏi hắn: “Vậy mọi sự trong đời ngươi đều phải nghe theo mẫu thân sao?” Hắn gãi đầu, vẻ ngượng ngập: “Ấy là mẫu thân ta mà… lẽ nào người không lo cho ta sao?” Đến lúc này ta mới thật sự hiểu rõ — cái gọi là “Triệu thị biết che chở” ấy, thì che là che cho con trai bà ta, còn cái bị bà “che khuất” chính là con dâu nhà người ta. Ta lấy ra mười lượng bạc sính lễ năm xưa, “xoạt” một tiếng rải thẳng xuống đất: “Lui thì lui! Hạng người như các ngươi, ta có thèm gả vào cũng chẳng thiết!” Triệu thị ngồi xổm xuống đất, vừa nhặt từng thỏi bạc vừa lẩm bẩm chửi rủa: “Thế gian này làm gì có nữ nhi nào lại thô lỗ thế chứ! Đáng đời ế suốt kiếp!” Ta trở về phòng, thấy phụ thân nằm yên trên giường, mắt mở trân trân nhìn lên trần nhà, trong hốc mắt là từng vệt lệ trong suốt lặng lẽ trào ra. Người hận thế đạo bạc bẽo, hận chính mình nhìn người không thấu, lại sợ ta bị lui hôn rồi sẽ không còn ai chịu cưới. Ta ngồi xuống mép giường, cầm tay phụ thân, dịu giọng dỗ dành: “Cha à, nếu thực sự không ai rước, thì nữ nhi ở vậy trọn đời bầu bạn cùng cha cũng được mà.”   3. Tết Trừ Tịch năm ấy, chúng ta đón không mấy vui vẻ. Chỉ dám cắt một miếng thịt nhỏ, dán thêm vài bức hoa cắt giấy lên tường, cũng coi như góp chút hỷ khí mong xua đi điều xui rủi. Phụ thân vốn định chờ thân thể khôi phục rồi sẽ trở lại nghề cũ, nhưng lời đồn đại bên ngoài cứ ngày một lan xa. Có kẻ bảo từng thấy phụ thân nhổ nước bọt vào món ăn; lại có kẻ bịa rằng người vào nhà xí xong chẳng buồn rửa tay rồi vẫn tiếp tục nấu nướng. Tường đã đổ, thì người đời nào tiếc sức xô thêm một đạp. Từ đó, chẳng còn ai chịu mời phụ thân ta tới chấp chưởng bếp núc nữa. May mà phụ thân chẳng phải hạng dễ gì chịu khuất phục. Người bán đi căn nhà cũ, mang theo hành lý đơn sơ, dắt ta lên thành mở một sạp bán thịt lợn. Hôm chuẩn bị lên đường, tiểu thúc cũng muốn bám theo. Phụ thân chỉ hừ lạnh, trừng mắt một cái mà dằn hắn trở lại: “Ta nuôi con gái là đạo lý trời đất. Còn ngươi, đã lớn từng này, lại muốn ăn bám ta mãi, không biết thẹn à?” “Hồi đó ngươi chẳng phải mong ta chết sớm cho rảnh sao? Giờ ta còn sống nhăn, ngươi lại có mặt mũi tới gần?” “Đợi khi ta đi rồi, chỉ e đến nước thịt ngươi cũng chẳng còn phần đâu!” Phụ thân ta từng sống mấy chục năm cùng dao thịt thớ xương, chuyện róc xương, chặt thịt với người chỉ như múa tay trước mặt. Người đến mua thịt, phụ thân chẳng bao giờ ngại mở lời hỏi trước một câu: “Dùng làm món gì vậy? Để ta chọn giúp phần thịt thích hợp.” Thịt kho nên dùng ba chỉ đủ mỡ đủ nạc. Xương sườn đem hấp hay om đều thơm. Xào thịt sợi thì chọn thăn lưng. Còn nấu canh bổ, cứ chọn ống xương là tốt nhất. Khách đến mua thịt nói dùng để nấu món gì, phụ thân ta liền có thể cắt lát, thái sợi cho vừa ý. Vậy nên quầy thịt nhà ta lúc nào cũng đông đúc hơn người khác. Phương nương tử là chủ một tiệm bánh bao, bà đặc biệt thích tới sạp ta mua mỡ gáy heo. Bà nói, cả chợ chỉ có sạp nhà ta là phủ vải sạch sẽ, khe thớt không vướng lấy một hạt bùn đen. “Thật không ngờ Đại ca nhà họ Cao cao to lực lưỡng thế kia, mà lại là người chu đáo như vậy.” Phụ thân ta thật chẳng chịu nổi người khen, một câu thôi đã đỏ bừng mặt. Người vội vàng xua tay: “Là do con gái ta chu đáo, con bé ấy thật tốt tính, làm việc nhanh nhẹn lại ưa sạch sẽ.” Mặc cho phụ thân có ra sức tô vẽ cho ta thế nào, thì kẻ thật lòng để ý lại chẳng mấy ai. Chỉ có Vương thẩm là không ngại vất vả mai mối cho ta. Thẩm từng nhắc đến con trai nhà thợ mộc họ Trương ở đầu chợ. Nhưng tiểu Trương nghe xong thì gãi đầu lắc đầu bảo: “Nhà ta làm nghề chân tay nặng nhọc, chẳng cưới nổi người còn khỏe hơn mình.” Cũng có lần thẩm ngỏ ý tới cậu con út nhà họ Lưu, người ốm yếu bệnh hoạn quanh năm. Nhưng nhà đó cũng từ chối thẳng: “Sợ đâu ngày nào hai đứa cãi vã, con bé ấy lại rút dao rạch cổ con ta thì khốn.” Cũng đúng thôi. Người tử tế nhà ai lại đi cưới một nữ tử tay múa dao như gió, giọng nói vang còn hơn đàn ông chứ? Nói không chừng, thật sự ứng với lời mắng chửi của Triệu thị: đời này ta chỉ đành cô độc mà sống cho hết kiếp. Nhưng Vương thẩm lại chẳng chịu bỏ cuộc. Vài hôm sau lại sang tìm phụ thân: “Lão Cao à, lần này chắc chắn thành đấy! Bên kia đã gật đầu rồi, chỉ chờ nhà mình định liệu. Bên ấy là công tử họ Lâm, tên Thanh Tuyền, ở trong ngõ Phá Ngõa.” Phụ thân nghe xong, suýt chút nữa thì tối sầm mặt mày. Nhà họ Lâm nghèo đến nỗi “nhà chỉ còn bốn bức tường” cũng chẳng nói cho hết được. Vì nhà ấy còn chẳng có nổi bốn bức tường đàng hoàng. Hai gian phòng chưa từng trát vữa, vách còn lộ rơm rạ. Trong nhà chỉ còn lại một bà mẹ già mù lòa, tính tình thì được tiếng là hiền lành dễ chịu. Còn Lâm Thanh Tuyền – chính là thư sinh ăn học, ngốn bạc không ít. Mẹ con họ sống kham khổ đến tận cùng.