Chỉ cần người không sao… là ta đã an lòng. Ta đưa người sứ giả phần lễ vật và thư đã chuẩn bị sẵn, nhờ mang về cho Thái tử. Từ đó, bốn tháng chúng ta thư từ một lần. Trong thư thứ ba, Thái tử nói đã tiêu diệt xong toán sơn phỉ cuối cùng, các tộc trưởng dần đổi thái độ, đồng ý đưa con cháu vào kinh học hành, sau đó nhận chức triều đình về quản lý Lĩnh Nam. Thư thứ năm, hắn viết: toán thủy tặc hung hăng nhất đã bị dồn đến một hòn đảo không có nước ngọt. Trận quyết chiến tại Vịnh Nguyệt sắp bắt đầu — nếu thắng, Lĩnh Nam sẽ hoàn toàn yên ổn. 【Uyển Lạc, sau trận này, nàng có thể cho ta biết câu trả lời của nàng không?】 — hắn viết. Ta hồi thư: 【Được.】 Ta rời khỏi kinh thành, đến Vĩnh Châu đã gần hai năm. Trong hai năm ấy, lòng ta thay đổi rất nhiều. Ta nhìn thấu lòng hắn, cũng hiểu rõ lòng mình. Hơn nữa, giờ ta đã là nữ thương nhân gỗ lớn nhất Đại Diễn, thân phận ấy cho ta đủ tự tin để bước vào một ngã rẽ mới của đời mình. Sau khi hồi thư, ta ngày ngày ra cổng thành Vĩnh Châu đợi tin. Một tháng, không thấy. Hai tháng, vẫn chưa đến. Ba tháng, cũng không. Bốn tháng… đến thư cũng không có. Ta bắt đầu lo sợ, sợ có chuyện chẳng lành, bèn nhờ một thương nhân đi Lĩnh Nam dò tin. Thương nhân vừa rời Vĩnh Châu được bốn ngày… Thái tử Hạc Thời và quân đội của hắn xuất hiện ngoài thành. Hắn không mặc giáp, cũng chẳng cưỡi chiến mã. Từ cỗ xe đi đầu đoàn quân, tấm rèm được vén lên — ta nhìn thấy gương mặt tái nhợt của Thái tử bên trong. Nước mắt ta rơi xuống như mưa. Hắn nhìn ta mỉm cười, nói: “Uyển Lạc, ta không còn sức kéo nàng lên nữa… nàng có thể tự trèo lên không?” “Được.” – ta đáp, rồi dưới sự giúp đỡ của Oanh Nhi, trèo lên xe hắn. Hắn vươn tay lau nước mắt cho ta, nói: “Không gặp hai năm, nàng vẫn dễ khóc như vậy.” “Bị thương ở đâu vậy? Sao lại bị thương? Sao không đợi khỏi hẳn ở Lĩnh Nam rồi mới quay về?” – ta liên tục hỏi dồn, giọng run rẩy vì lo lắng. Hắn nắm lấy tay ta, nghiêm túc trả lời từng câu một: “Bị thương ở ngực. Trận quyết chiến ở Vịnh Nguyệt, tên thủ lĩnh thủy tặc bỏ rơi đồng bọn bỏ trốn, ta đuổi theo hắn, không ngờ trúng một mũi tên. Vết thương rất nặng. Nếu ta còn nán lại Lĩnh Nam để dưỡng thương, ta sợ nàng sẽ lo lắng.” Trời ơi… hẳn là đau lắm… Lòng ta đau như thắt lại, vừa thương xót vừa nghẹn ngào, khẽ nói với hắn: “Chàng sống về được là tốt rồi. Vết thương này, chúng ta cứ từ từ chữa ở Vĩnh Châu, dưỡng lành rồi hãy hồi kinh.” “Uyển Lạc…” – Thái tử nhìn ta, ánh mắt sâu lắng – “Ta suýt nữa đã chết rồi. Mũi tên đó… vốn nhằm thẳng vào tim ta, là chiếc gương đồng nàng tặng đã đỡ thay một chút. Mũi tên lệch đi một tấc, mới không đâm thẳng vào tâm phế, giữ lại được mạng này.” “Uyển Lạc, là nàng… đã cứu ta.” Thật… nguy hiểm đến thế sao? Ta không kìm được, lại bắt đầu rơi nước mắt. Ta hối hận, nghẹn ngào nói: “Sớm biết vậy, lúc trước ta nên cầu cho chàng hai lá bùa hộ thân mới phải…” Phong tục ở Vĩnh Châu là vậy: Bằng hữu thì tặng một chiếc gương đồng, người thân hoặc người trong lòng… thì tặng hai chiếc. Nếu lúc đó ta tặng chàng hai chiếc, có lẽ chàng đã bớt bị thương một chút, bớt phải chịu khổ rồi. “Uyển Lạc.” – Hắn nghe vậy thì rạng rỡ hẳn lên, hỏi – “Nàng nói vậy… tức là bằng lòng gả cho ta rồi phải không?” “Phải.” Ta gật đầu. 10 Đại quân của Thái tử đóng trại bên ngoài thành Vĩnh Châu, còn hắn thì lưu lại trong thành để tĩnh dưỡng. Ta được nhìn thấy vết thương của hắn, mới biết mũi tên kia hiểm ác đến nhường nào. Nhưng tinh thần hắn lại rất tốt, mỗi ngày đều có thể nói với ta không biết bao nhiêu chuyện. Ta vất vả lắm mới rảnh được chút để xem sổ sách, vậy mà hắn cứ muốn ngồi bên cạnh, dính như keo. Lúc đó ta mới hiểu vì sao quân sĩ và bách tính đều gọi Thái tử dũng mãnh là thế, hóa ra cũng là một người “dính người” đến thế. Một tháng sau, tin tức từ kinh thành truyền đến — Hoàng thượng… nguy kịch rồi. Vết thương của Thái tử vẫn chưa lành hẳn, nhưng tình hình không cho phép chần chừ. Hắn không thể ở lại Vĩnh Châu thêm nữa, đành phải dẫn đại quân vội vã hồi kinh. Ta không giúp gì được ngoài việc mỗi ngày chuẩn bị thêm những món canh bổ khí huyết cho hắn. Đêm Giao thừa, cuối cùng chúng ta cũng trở về tới kinh thành. Thái tử sai người đưa ta về phủ Giang, còn bản thân thì lập tức vào cung diện thánh. Hai năm không trở về, kinh thành đã đổi thay rất nhiều. Về đến phủ Giang, ta vừa ngồi xuống chưa bao lâu, Trương ma đã vội vã đến gặp ta. “Thế tử gia… không, giờ là Hầu gia rồi,” – bà thấp giọng nói, vẻ mặt đầy cảm xúc – “Suốt một năm nay, ngày nào cũng đến phủ Giang hỏi tin của tiểu thư.” “Tiểu thư… người và Hầu gia thật sự không còn cơ hội nào nữa sao?” “Vậy còn Giang Uyển Sương?” – ta hỏi. Trương ma khẽ lắc đầu, đáp: “Nàng ta có vào ở trong phủ Hầu, nhưng không danh không phận, Hầu gia vẫn chưa cưới nàng ta chính thức. Sau khi tiểu thư rời kinh khoảng một năm, Nhị lão gia và Nhị phu nhân đã bị hạ chỉ tống vào ngục. Nghe nói… liên quan đến mưu phản.” Ta gật đầu tỏ ý đã rõ, rồi nhẹ giọng nói với bà: “Trương ma, từ nay về sau, nếu Lâm Thận Chu còn đến, đừng cho hắn vào nữa. Ta đã quyết định… sẽ gả cho Thái tử.” Trương ma mừng rỡ đến sửng sốt: “Tốt quá! Tốt quá! Tiểu thư cứ yên tâm, lão nô nhất định không để hắn bước chân qua cửa nữa.” Sắp xếp qua loa mọi thứ, ta trở về căn phòng khuê các của mình hai năm trước, yên giấc nơi ấy. Hôm nay là đêm Giao thừa, nhưng vì thánh thượng đang nguy kịch, cả kinh thành đều vắng lặng, không có lấy chút náo nhiệt của những năm trước. Thỉnh thoảng, mới nghe thấy tiếng pháo nổ lẻ tẻ vẳng lên từ xa xa… Đêm đó, ta ngủ không yên. Sáng hôm sau, vừa mới tỉnh dậy, liền nghe thấy bên ngoài có chút náo loạn. “Có chuyện gì vậy?” – ta gọi Oanh Nhi vào hỏi. “Là Lâm Hầu gia.” – Oanh Nhi sa sầm mặt, nói đầy bất mãn – “Hắn nghe tin tiểu thư đã về, liền liều mạng xông vào phủ, gia đinh không cản nổi, hiện tại đang bị thị vệ mà Thái tử để lại đối đầu chặn lại.” Giọng ta lạnh hẳn đi: “Cởi chuông phải là người buộc chuông. Chờ ta rửa mặt chải đầu xong, ta sẽ ra gặp hắn một lần.” Năm xưa chính là hắn vứt bỏ ta, chọn lấy Giang Uyển Sương.