3. Lục Diễn không ở trong phủ, người nhà họ Lục nói rằng hắn đã phụng chỉ vào kinh. Kinh thành xa xôi, không biết thánh thượng giao cho hắn việc gì, ít nhất cũng phải đợi nửa tháng mới quay về. "A Kiều, chờ thêm nửa tháng nữa, được không?" Ta không rõ tại sao mình lại không thích cô nương Ngọc Chương. Rõ ràng khi gọi ta là "A Kiều tỷ tỷ," nàng cười ngọt ngào đến thế. Rõ ràng ta rất thích được người ta khen ngợi tài nấu nướng, nhưng lời khen của nàng lại khiến ta không vui: "A Kiều tỷ tỷ nấu ăn thật ngon, khó trách có thể giữ chặt được trái tim của Mạnh ca ca." Nhưng ngoài ta ra, Mạnh Hạc Thư và Bách nhi đều rất thích nàng. Bách nhi, đứa trẻ ngày thường ngoan ngoãn nghe lời ta nhất, lần đầu tiên đẩy bát cơm trước mặt ra. Cơm vương vãi, nước canh nhỏ giọt dọc theo mép bàn. "Con không ăn nữa, con muốn cùng tỷ tỷ ra phố mua bánh ăn!" Nhìn không nổi cảnh nó lãng phí thức ăn, ta quát mắng vài câu. Bách nhi vừa lau nước mắt, vừa không chịu nhận sai. Ngọc Chương bước tới hòa giải: "A Kiều tỷ tỷ, trẻ con thèm ăn vặt, không thể cứ bắt chúng ăn cơm nghiêm chỉnh mãi được." Bách nhi lau nước mắt, căm tức nhìn ta một cái: "Tại sao mẹ lại là người? Tại sao mẹ không phải tiên nữ tỷ tỷ?" Một câu nói của Bách nhi khiến Mạnh Hạc Thư đứng ngoài cửa cũng sững người, ánh mắt hắn ảm đạm hạ xuống. Trái tim ta như bị ai đó khoét mất một mảnh. Hồi mang thai Bách nhi, ta đã rất vất vả. Do ngôi thai không đúng, ta phải chịu cơn đau suốt một ngày một đêm mới sinh được nó ra. Mỗi lần Bách nhi nghịch ngợm, Mạnh Hạc Thư đều kể cho nó nghe về sự cực khổ của ta. Khi ấy, Bách nhi vội vàng dùng tay bịt miệng hắn, rồi chỉ vào ngực mình: "Cha đừng nói nữa, mẹ đau, Bách nhi cũng đau đây này."   Ngày hôm sau là sinh thần ta. Ta nấu một bàn món mà Mạnh Hạc Thư thích ăn, rồi đi mua bánh cho Bách nhi. Chờ đến tối, khi mâm thức ăn trong bếp đã được hâm nóng lần thứ ba, Mạnh Hạc Thư mới đưa Bách nhi trở về. Ta nhìn thấy cây trâm bạc Bách nhi định tặng ta, lại cài trên tóc của cô nương Ngọc Chương. Mạnh Hạc Thư thấy ánh mắt ta dừng trên cây trâm, mới sực nhớ ra hôm nay là sinh thần ta. Hắn vội vàng giải thích, nói rằng vì Ngọc Chương tâm trạng không tốt, nên hai cha con mới đưa nàng ra ngoài dạo cả ngày. Cây trâm kia là Bách nhi đeo cho nàng chơi, không phải định tặng nàng. Ngọc Chương xoa đầu Bách nhi, nói: "Bách nhi ngoan nào, đem cây trâm tặng mẹ đi, được không?" Bách nhi trốn sau lưng Ngọc Chương, môi mếu máo, rồi bật khóc nức nở: "Tại sao phải tặng mẹ? "Mẹ cài cái này đâu có đẹp bằng tiên nữ tỷ tỷ!" Mạnh Hạc Thư sa sầm mặt, nghiêm khắc quát mắng Bách nhi, nhưng Ngọc Chương lại như một từ mẫu, ôm lấy nó mà che chở. Không biết vì sao, ta cảm thấy mình như biến thành một kẻ vừa xấu xa vừa thừa thãi. Mâm thức ăn trong bếp lại nguội lạnh, ta không còn tâm trạng hay ý muốn hâm nóng nữa. Ta tự nấu cho mình một bát mì. Có lẽ vì khóc đến mụ mị, ta lỡ tay cho quá nhiều muối. Một bát mì mặn chát, đắng ngắt, khiến ta cảm thấy cuộc sống này sao mà khó khăn đến vậy.   "Phải sống cho tốt đấy, A Kiều tỷ tỷ!" Xuống thuyền, Xuân Sinh chắp tay, lớn tiếng gọi với theo ta. Ta đứng ở bến đò, vẫy tay đáp lại. Ta định đếm xem còn bao nhiêu tiền để tìm chỗ trọ, thì phát hiện hai mảnh bạc vụn đã đưa cho Xuân Sinh, chẳng biết từ khi nào lại bị hắn lén đặt dưới đáy giỏ tre. Thuyền đã rời bến, ta đuổi không kịp. Thôi đành sau này trả hắn vậy.   Ở Thanh Châu, ta đi tìm việc suốt ba ngày, nhưng nơi thì không cần người, nơi lại ép giá công xá xuống mức thấp nhất. Cuối cùng, có một tửu lâu đồng ý. Chưởng quầy bảo muốn thử việc, để ta nấu ăn trong ba ngày. Không biết là nhà ai ăn khỏe đến thế, chỉ riêng cơm hấp đã đủ để nhà họ Mạnh ăn suốt nửa năm. Ta không dám lơ là, bận rộn đến mức chân như đập vào sau gáy. Chưởng quầy râu ngắn mỗi lần đi qua đều cười gật đầu, khiến ta tưởng mình đã qua được thử thách. Ai ngờ đến ngày thứ ba, hắn trở mặt, ném cả ta lẫn bọc hành lý ra ngoài: "Nương tử nấu ăn không ra gì, khách ăn xong đau bụng, còn đòi bồi thường một đống bạc lớn!" Đến nước này, dù có ngốc ta cũng biết mình bị lừa. Ta không khóc, chỉ lau mắt, nhặt bọc đồ lên, phủi sạch bụi.   Ngày thứ năm, tiền trong người cạn kiệt, ta đứng trước tiệm cầm đồ, định cầm cây trâm bạc. Bỗng một thư sinh dáng vẻ trẻ trung gọi ta: "Nương tử, xin dừng bước." Ta không quen biết hắn. "Vài ngày trước, thức ăn trong thư viện của chúng ta có phải do nương tử nấu không?" "Không phải, mấy ngày trước ta nấu cho Khách Vân Lâu, chưa từng nấu cho thư viện nào." "Vậy thì đúng rồi, thư viện chúng ta đặt thức ăn từ Khách Vân Lâu." Ta nhớ lại lời chưởng quầy nói về khách ăn đau bụng, lo lắng hỏi: "Các ngươi bị đau bụng sao?" "Không ai đau bụng cả." Thư sinh mỉm cười. "Là vì thức ăn do nương tử nấu rất ngon, sau đó chúng ta đặt thêm hai ngày nữa. Khách Vân Lâu từ đó không còn món nào ngon như vậy. Tìm hiểu mới biết chưởng quầy nhà họ không tử tế." "Vậy ý ngươi là sao?" "Thư viện chúng ta đang thiếu một quản sự, nhưng công việc hơi vất vả. Ngoài nấu ăn, còn phải giặt giũ. Tuy nhiên, ăn ở đều được bao. Không biết nương tử có đồng ý không?"   Đó là Quan Hạc Thư Viện nổi tiếng nhất Thanh Châu, dựa lưng vào núi, kề bên dòng nước. Ta không hiểu được ý nghĩa của những chữ rồng bay phượng múa trên bảng hiệu, nhưng lại thích mảnh đất hoang phía sau thư viện, nơi người ta khai khẩn thành hai mảnh vườn trồng rau, còn có thể nuôi thêm vài con gà. Các tiên sinh trong thư viện thích trúc, nên nơi này có rất nhiều rừng trúc. Ta nghĩ cũng hay, măng trúc non có thể hầm với thịt muối, còn trúc già thì chẻ ra làm giàn cho đậu leo. Ta rất thích trồng đậu, trồng dưa, nhưng Mạnh Hạc Thư thì không. Hắn nói trong sân phải trồng mai, mùa đông ngắm mai mới là tao nhã. Ta đã từng vui vẻ vì hắn mà trồng cả một vườn mai đỏ. Rất lâu sau ta mới biết, cô nương Ngọc Chương cũng thích mai.   Thấy ta im lặng, thư sinh dè dặt hỏi: "Nương tử có điều gì băn khoăn sao? Là về tiền công tháng..." "Ở đây có cho phép ta trồng rau không?" "Đương nhiên được!" Ta gật đầu. "Vậy thì được."   4. Gần thư viện có mấy hộ dân sinh sống. Người thư sinh hôm nọ tìm ta tên là Hứa Thường. Hứa Thường dặn dò: "Người trong thư viện đều dễ gần, mấy hộ dân xung quanh cũng tốt bụng, chỉ có điều đừng dây dưa với con chó ghẻ." "Chó ghẻ?" Hứa Thường hậm hực đáp: "Chính là A Hổ, thằng nhãi không cha không mẹ dạy dỗ." Ta từng nghe người khác nói qua. A Hổ là đứa trẻ mười tuổi, cha nó tái hôn, mẹ nó đi bước nữa, bỏ lại nó một thân một mình không ai đoái hoài. Bọn trẻ không muốn chơi với A Hổ, nói nó là đứa chuyên nói dối, tay chân không sạch sẽ, hay trộm gà, bắt chó. Hơn nữa, nó khỏe, thích đánh nhau. Ai chọc giận nó, đêm đến nó sẽ xô đổ giàn mướp, mở chuồng gà nhà người ta, để chồn hoang đến phá. Trẻ con ghét nó thì thôi, nhưng lạ thay, Hứa Thường, một người hai mươi tuổi, lại có hiềm khích với đứa trẻ mười tuổi này. Hóa ra hai năm trước, A Hổ đặt bẫy bắt thỏ rừng, khiến Hứa Thường trượt ngã gãy chân, lỡ mất kỳ thi. Mà đề thi năm đó, lại là phần lịch sử bình luận mà Hứa Thường giỏi nhất. Từ đó, Hứa Thường căm ghét nó. Hứa Thường muốn đánh nó, A Hổ liền nằm vật ra đất, làm trò: "Đánh người kìa! Đánh trẻ con kìa! Học giả đánh người tốt kìa!" Hứa Thường tức không chịu được, bèn mua kẹo phát cho lũ trẻ quanh đây, xúi chúng đánh A Hổ một trận. A Hổ bị đánh, nhưng vẫn lăn lộn dưới bùn như một con chó ghẻ: "Ha ha, không đau, chẳng đau chút nào!" Không ai trong thư viện trị nổi nó. Hứa Thường đành chịu thua, coi như số xui.   Ta chưa từng động tới nó, nhưng nó lại gây sự với ta. Nó trộm con gà lông hoa của ta, mang ra sau núi nướng ăn. Đùi gà nóng quá, nó làm rơi xuống đất, cũng không thấy ghê, chỉ phủi đất rồi nhét vào miệng. Ăn vội vàng, nó làm đau vết thương, hít vào một hơi, nhưng không cản được cơn thèm. Nó ăn ngon lành đến mức không nhận ra ta đứng phía sau. Ta vỗ vai nó: "Thịt gà lông hoa mà nướng kiểu này thì dở lắm." A Hổ giật mình run lẩy bẩy, bị nghẹn, ho không ngừng. Ta vỗ lưng nó: "Loại gà này nên nấu súp với nấm, hoặc xào để làm món chan mì."   Ta nấu hai bát canh gà, một bát cho nó, một bát cho ta. Nhưng bát của nó có hai cái đùi gà. Giống như trước đây, mỗi khi nấu canh gà cho Bách nhi và Mạnh Hạc Thư, mỗi người một cái đùi. A Hổ nhìn ta đầy ngờ vực, nhưng không cưỡng lại được mùi thơm của canh và độ béo của đùi gà. "Ngươi định làm gì?" "Ta chỉ muốn nói rằng, gà lông hoa thích hợp để hầm canh."   "Nước canh có độc à? Ngươi tưởng ta không dám ăn sao?" Nó như liều mạng, bưng bát lên uống một ngụm. Ta thấy nó tròn mắt ngay từ miếng đầu tiên. Ăn ngấu nghiến, ta nghi ngờ nó sắp nuốt luôn cả lưỡi. Ta bất giác cảm thán, đúng là người ta nói chẳng sai: "Trẻ trai nửa lớn, ăn nghèo cả cha." Uống hết bát thứ ba, ánh mắt A Hổ dường như sáng hơn. "Lần sau đói bụng, đừng trộm nữa. Cứ đến đây ăn cơm." Nó lấy ống tay áo bẩn không nhìn ra màu lau miệng, định nói gì đó, nhưng vừa ngẩng lên đã thấy Hứa Thường bước vào, vội đặt bát xuống, chạy biến đi, không kịp nói lời cảm ơn. Hứa Thường nhìn theo bóng nó, nhổ nước bọt: "Nương tử, đừng mềm lòng. Thằng nhãi đó là giống vong ân bội nghĩa." Không phải ta mềm lòng. Chỉ là ta nghĩ một đứa trẻ biết trân trọng thức ăn, chắc không đến mức quá xấu xa.   Nhưng hôm sau, giàn đậu đằng sau thư viện của ta bị đổ. Hứa Thường dẫn theo một nhóm người đến làm chứng, còn A Hổ đứng ngơ ngác bên cạnh giàn đậu bị đổ, không biết phải làm gì. Chưa đợi ta mở lời, A Hổ đã hung hăng đẩy mạnh Hứa Thường ngã nhào rồi vội vã chạy biến. "Thằng nhãi này! Nương tử đối xử với nó tốt như thế, vậy mà nó lại phá hoại vườn nhà." Ta nghĩ một chút rồi nói: "Tối qua gió thổi cả đêm, lại thêm mưa lớn, có lẽ là ta dựng giàn không chắc."   Tối đó, bên ngoài sân có một bóng người lén lút ngồi thụp xuống. Ta hâm nóng lại nồi canh gà hôm qua, hương thơm lan tỏa, bóng dáng ấy không còn chịu yên được nữa. "... Giàn đậu không phải do ta xô đổ. Tối qua nghe tiếng gió, ta chỉ lo giàn của ngươi bị thổi ngã nên chạy qua xem." "Đã nói ra được, sao còn chạy?" A Hổ cúi đầu, giọng mang theo chút nghẹn ngào: "Ta không muốn chạy, nhưng sợ ngươi chưa kịp hỏi đã mắng trước." "Vậy lần sau có chuyện gì, ta sẽ hỏi ngươi trước, được không?" A Hổ không đáp, chỉ bưng cả bát canh lên uống, lấy bát che mặt, mãi không chịu đặt xuống. Ta bật cười trêu: "Gà lông hoa chan nước mắt không ngon đâu, sẽ mặn đấy."