4. Có cháu trai cháu gái, cuối cùng cũng phần nào xua tan nỗi đau mất con của hai vị lão nhân. Sau khi an táng di thể của Bùi Độ, lão gia và phu nhân phủ Bùi lập tức long trọng làm lễ đưa hai đứa nhỏ nhập gia phả. Họ Bùi không còn thân thích gần gũi, đến dự đều là họ hàng xa và bằng hữu. Lão gia đích thân đặt tên cho cháu trai là Bùi Ngọc, cháu gái là Bùi Châu. Mà ta—Tống Nhược Đào—không biết bằng cách nào, danh tính lại cũng được ghi thẳng vào gia phả với thân phận chính thê của Bùi Độ. Lúc họ vừa đề cập đến chuyện ấy, ta hoảng hốt xua tay lia lịa: “Không cần đâu… không cần đâu, thân phận ta không xứng…” Phu nhân phủ Bùi hiếm khi nghiêm mặt lại, nói rành rọt: “Đào Đào à, con có đại công với nhà họ Bùi.” “Độ nhi mất rồi, nhưng con để lại cho chúng ta hai đứa cháu vàng ngọc. Con có biết, chính con đã phá vỡ vận mệnh suốt tám đời đơn truyền của họ Bùi không!” Ta cười khổ không đáp. Có… có khi nào, cái gọi là “phá vận mệnh” này chẳng qua là vì hai đứa nhỏ ấy… căn bản không phải người nhà họ Bùi không? Ta… hình như đã bước lên lưng cọp, giờ không xuống được nữa rồi… Nhà họ Bùi ở Yến Bắc là danh môn vọng tộc, ngày ta đến nơi đã gây chấn động cả một vùng. Nay lại sinh hạ song thai cho nhà họ Bùi. Không biết ai đã lan truyền mấy lời ta từng buột miệng nói hôm trước. Giờ đây, bên ngoài đã đồn đại rầm rộ, thậm chí còn được viết thành truyện nói giói khắp nơi. Công tử cao quý lạnh lùng, vừa gặp đã yêu cô nương hoạt bát đáng yêu nơi đầu sông Thanh Châu. Tình cảm bùng cháy, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, mây mưa mịt mùng nơi bờ sông. Giữa loạn thế, công tử ngọc thụ lâm phong bất hạnh bỏ mạng, nàng mang cốt nhục trong bụng, vượt ngàn dặm đến Yến Bắc sinh hạ song sinh nối dõi tông đường. Họ Bùi sao mà tuyệt hậu cho được, con cháu họ Bùi bây giờ đầy ra đấy thôi! Ta: “Ai… ai là người viết cái truyện này vậy?” Lão gia phủ Bùi vuốt râu, mặt mày thư thái đắc ý: “Ta viết đó. Ai bảo mấy lão già kia cứ nói họ Bùi nhà ta sắp tuyệt tự. Giờ ta ôm một lúc hai đứa, để xem bọn họ có ghen tị hay không!” Ta: “….”   5. Vài tháng sau, phủ Bùi mở tiệc chiêu đãi, thật sự có người đến… mang theo ánh mắt đỏ hoe vì ganh tỵ. Ta ngồi bên cạnh phu nhân phủ Bùi, thì thấy một tiểu thư áo hồng, mắt ngân ngấn nước, dán chặt ánh nhìn như thiêu đốt vào ta. “Nàng thật sự… thật sự từng cùng ca ca Độ bên bờ sông đó…” Ta có chút chột dạ, bèn làm ra vẻ thẹn thùng ngượng ngùng, né tránh ánh nhìn ấy. Ai ngờ dáng vẻ này càng khiến nàng ta nổi nóng hơn, giận đến nỗi chỉ vào Ngọc nhi và Châu nhi mà hừ lạnh: “Sao ta nhìn thế nào cũng chẳng thấy giống ca ca Độ! Chắc chắn ngươi thấy nhà họ Bùi giàu có nên cố tình đến lừa gạt đúng không?” Vừa dứt lời, phía sau nàng ta có một lão nhân ánh mắt không mấy thân thiện nhìn chằm chằm về phía ta: “Phu nhân, lão phu cũng cho rằng thân thế của cô nương này quá mức đáng ngờ… Chuyện này e là cần phải tra kỹ lại.” Lòng ta khẽ run, cảm thấy giọng nói ấy có chút quen tai, nhưng nhất thời không nhớ đã từng nghe ở đâu. Phu nhân phủ Bùi lập tức sa sầm nét mặt, ánh mắt lạnh như băng quét qua cả hai người: “Nếu còn ai dám sỉ nhục con dâu ta, nghi ngờ thân phận của Ngọc nhi và Châu nhi— về sau, đừng bước qua cửa phủ Bùi nửa bước!” Mọi người trong tiệc sắc mặt đều thay đổi, không ai dám hé thêm một lời. Đợi bọn họ lui xuống, phu nhân quay sang nhìn ta, thấy ta vẫn cúi đầu bất an, liền dịu giọng kể cho ta nghe về thân phận hai người ấy. Thì ra, cô nương áo hồng tên là Thẩm Ninh Sương, là thanh mai trúc mã với Bùi Độ từ nhỏ. “Con đừng giận, Ninh Sương chỉ là quá cố chấp với Độ nhi mà thôi…” Còn lão nhân vừa rồi chính là phụ thân của nàng, tên Thẩm Văn, cũng là người đã đích thân đến Thanh Châu đón di thể của Bùi Độ về. “Thẩm thúc của con từ lâu đã hỗ trợ sản nghiệp nhà họ Bùi, từng giúp cha Độ nhi rất nhiều. Lại là người trông Độ nhi khôn lớn từ nhỏ, ông ấy cũng là vì quan tâm lo lắng cho phủ Bùi và Độ nhi quá thôi… Con đừng để trong lòng.” Ta khẽ gật đầu, thì ra là vậy, trách sao ta cứ cảm thấy giọng nói ông ấy quen đến thế. Từ hôm đó trở đi, hai vị lão nhân phủ Bùi lại càng yêu thương hai đứa nhỏ như ngọc như châu, nâng niu chẳng rời tay. Còn đối với ta, họ cũng đối đãi chẳng khác gì con gái ruột trong nhà. Họ là người nhân hậu, khoan hòa, sống chan hòa với người xung quanh, gia đình hòa thuận ấm êm không gì sánh được. Còn ta, xuất thân quê mùa, tuy biết đôi ba chữ nghĩa, nhưng lại chẳng rành thơ văn cầm kỳ. Phủ Bùi là danh môn vọng tộc, môn đình lẫy lừng, vậy mà lại chẳng hề câu nệ ta chuyện học quy củ phép tắc. Ngược lại, lão gia thấy ta trong sân mày tay lấm lem gieo trồng rau cải, lúa mạch, dưa bí… thì bật cười vui vẻ, mắt nheo thành một đường. “Nội tổ con khi xưa cũng thích trồng mấy thứ này lắm, nói cho cùng nhà họ Bùi ta cũng đi lên từ ruộng đất mà. Đào Đào à, con đích thực là người nhà họ Bùi chúng ta rồi!” Ta hơi đỏ mặt, nhân đó thuận miệng kể chuyện về nạn châu chấu. Cha mẹ ta vốn là nông dân thực thụ, từ thuở nhỏ ta đã cùng họ dầm mưa dãi nắng ngoài ruộng đồng. Tuy hiện tại sống trong phủ Bùi, ăn no mặc ấm, không lo chuyện sinh kế, thế nhưng, từ sau nạn châu chấu năm ấy, trong lòng ta vẫn luôn mang một nỗi canh cánh. Ta muốn biết rõ— rốt cuộc vì sao khi ấy lại có bầy châu chấu dày đặc đến thế? Ta muốn ngăn chặn— Muốn để không còn ai phải chịu cảnh đói ăn, không còn ai phải vì đói mà chết. Lão gia trầm ngâm một lúc rồi nói: “Loại châu chấu tụ thành đàn lớn như vậy đúng là hiếm thấy. Nhưng ta mơ hồ nhớ hồi còn nhỏ từng nghe phụ thân con—nội tổ ta—nhắc đến. Tuy ký ức đã mơ hồ, nhưng ông ấy từng để lại một quyển ghi chép viết tay, lát nữa ta sẽ bảo người tìm mang đến cho con xem.” Hai mắt ta lập tức sáng lên: “Vậy thì còn gì bằng!” Quyển thủ bút của cụ tổ thật sự có ghi chép về châu chấu, nhưng chỉ vỏn vẹn vài hàng, không rõ ràng cho lắm. Trên đó viết: “Châu chấu gặp đại hạn mà sinh, đại hạn càng khốc, châu chấu càng nhiều.” Thảo nào—Thanh Châu vừa đại hạn xong, châu chấu đã ùn ùn kéo đến. Lại có một đoạn ngắn viết rằng: “Sợ lửa, sợ nước. Vạn vật sinh khắc lẫn nhau. Muốn trị tận gốc, ắt phải biết rõ loại châu chấu, nắm thời tiết phát sinh, hiểu rõ đặc tính của nó…” Nhưng cụ thể phải nhận biết ra sao, khắc chế thế nào, thì tổ phụ lại không hề viết tiếp. Thế là từ đó, ngày ngày ta vùi mình ngoài đồng, nghiên cứu châu chấu, bắt châu chấu, tìm dấu vết của chúng. Xới đất, gieo trồng, sáng ra đồng, chiều về nghỉ. Bất tri bất giác, đã tròn một năm trôi qua. Ngọc nhi và Châu nhi giờ đã biết đi chập chững, thường lạch bạch nơi ruộng vườn nghịch bùn chơi đất. Chẳng mấy chốc, hai đứa, đứa trước đứa sau nhổ một quả dưa ngọt, run rẩy bưng tới trước mặt lão gia và phu nhân: “Gia gia, nãi nãi, ăn dưa nè!” Lão gia và phu nhân phủ Bùi cười hiền hậu, ôm lấy hai đứa vào lòng. “Ngọc nhi, Châu nhi của ta càng lớn càng giống cha tụi nhỏ y đúc!” “Đúng vậy, cứ như khuôn đúc mà ra vậy đó!” Ta ngẩng đầu nhìn họ, lòng chợt mềm nhũn, nơi khóe mắt bất giác cong lên. Ta nghĩ… có lẽ, ta có thể ở lại thêm một năm nữa. Chờ đến… chờ đến khi…   6. Chớp mắt lại thêm một năm nữa trôi qua. Ta vẫn như mọi ngày, lom khom trong ruộng bắt sâu bắt bọ. Ngọc nhi và Châu nhi cũng bắt chước ta, nghịch ngợm chơi đùa với côn trùng trong đất bùn. Bỗng ngoài viện vang lên một tiếng kêu thất thanh: “Công tử về rồi!” Ba mẹ con ta không hẹn mà cùng lúc… dịch mông sang một bên, đầu thì vẫn không buồn ngẩng lên. Mãi đến khi nha hoàn Tiểu Thúy chạy thẳng tới trước mặt, mắt sáng long lanh: “Phu nhân! Công tử trở về rồi!” Ta ngẩng đầu, tiện tay lau mồ hôi, thản nhiên hỏi: “Công tử gì cơ?” “Phu quân của người đó! Cha của tiểu thiếu gia và tiểu tiểu thư! Bùi công tử! Bùi Độ công tử đã trở về rồi!” Ta như bị sét đánh trúng giữa ban ngày: “Cái… cái gì? Chẳng phải… chẳng phải hắn chết rồi sao?!” Tiểu Thúy mỉm cười rạng rỡ: “Chưa chết đâu ạ! Công tử không chết! Giờ ngài ấy đã trở về, trở về đoàn tụ với phu nhân và các tiểu chủ tử rồi!” Hai mắt ta tối sầm: “Ngươi… ngươi mau ra cổng chờ ta! Ta… ta phải đi thay y phục trước đã!” “Dạ!” Đợi Tiểu Thúy rời đi, ta lập tức một tay ôm một đứa, hai chân chạy như bay về hướng ngược lại. Nào ngờ lại đâm sầm vào… một bức tường thịt. Ta chầm chậm ngẩng đầu lên, đối diện là một đôi mắt đen sâu lạnh lẽo như mực, nhìn thẳng ba mẹ con ta không chớp. “Nghe nói, ta nay đã có đủ cả trai lẫn gái?” Ta cứng đờ toàn thân. Người đứng trước mặt ta, dáng người thon dài, áo trắng như tuyết, ngọc khí thanh cao— quả thực là dung nhan tuyệt thế, như tiên nhân hạ phàm, thanh khiết như vầng trăng treo nơi chân trời. Ngũ quan của chàng… tinh xảo như khắc, từng đường nét— quả nhiên giống hệt Ngọc nhi và Châu nhi. Bảo sao lão gia và phu nhân phủ Bùi lại tin đến như thế. Ngọc nhi và Châu nhi không hiểu tình huống, thấy ta đột ngột dừng lại thì đồng loạt kêu lên phản đối: “Nương! Ngọc nhi còn muốn bay nữa mà!” “Nương ơi! Châu nhi cũng muốn bay nữa mà!” Thấy ta đứng chết trân một chỗ, hai đứa nhỏ liền phịch một tiếng nhảy khỏi tay ta. Mặt mày giận dỗi, đôi tay đôi chân lấm lem bùn đất nhất loạt lao tới, dùng sức đẩy người kia ra: “Ngươi tránh ra đi!” Chiếc cẩm bào màu trăng thanh kia lập tức bị in lên mấy dấu tay đen sì sì nho nhỏ. Ta đầu óc ong ong, cắn răng một cái, phịch một tiếng quỳ xuống trước mặt hắn: “Bùi… Bùi công tử… ta… ta không phải…” Phía sau hắn, bỗng vang lên một giọng cười khúc khích đầy mỉa mai: “Hừ! Độ ca ca, Bùi thúc, Bùi thẩm, thấy chưa! Ta đã nói rồi mà, nàng ta là giả mạo!” Là Thẩm Ninh Sương. Sau lưng nàng, chen chúc một đám người áo mũ chỉnh tề, đủ nam phụ lão ấu, chính là nhóm khách khứa tới phủ Bùi chúc mừng sau khi nghe tin Bùi Độ chưa chết trở về. Lão gia và phu nhân phủ Bùi đứng phía trước, sắc mặt vừa kinh ngạc vừa hoài nghi, ánh mắt nhìn ta đầy rối loạn. “Đào Đào… con… con…” Phụ thân của Thẩm Ninh Sương—Thẩm Văn—bước nhanh lên trước, ánh mắt lạnh như băng khóa chặt vào người ta. “Bùi huynh! Các người đã bị vẻ ngoài trong sáng của nữ nhân này lừa gạt rồi! Nàng ta là một kẻ lừa đảo từ đầu đến chân! Suốt hai năm nay, ta không ngừng phái người về Thanh Châu tra xét, cuối cùng cũng tìm ra manh mối. Giữa nàng ta và Độ nhi, căn bản không hề có liên hệ gì cả! Cái gì mà bờ sông Thanh Châu, đều là bịa đặt!” Hắn lại hung hăng chỉ tay về phía Ngọc nhi và Châu nhi, giọng đầy cay độc: “Còn hai đứa nhỏ này, rõ ràng là con hoang!” Ngọc nhi và Châu nhi bị vẻ mặt dữ tợn ấy dọa cho sợ phát khiếp, lập tức mếu máo khóc òa lên: “Ngọc nhi sợ… hu hu hu…” “Hu hu… Châu nhi cũng sợ…” Từng giọt nước mắt to như hạt châu lăn dài lộp độp rơi xuống. Hai đứa nhỏ từ nhỏ được phủ Bùi yêu thương nuông chiều, lanh lợi ngoan ngoãn, được lão gia và phu nhân xem như trân bảo, đến một câu nặng lời cũng chưa từng nghe qua, làm sao chịu nổi lời lẽ cay nghiệt và ánh mắt hung hãn thế kia? Chỉ trong chớp mắt, lão gia và phu nhân phủ Bùi đã giận tím mặt, bước lên ôm chặt lấy hai đứa nhỏ vào lòng, vẻ mặt lạnh như băng. “Thẩm Văn! Ngươi đừng có ăn nói hồ đồ! Chúng ta già nhưng chưa đến mức hoa mắt loạn óc! Ngọc nhi và Châu nhi từ tính nết đến dung mạo— nếu không phải cốt nhục nhà họ Bùi, còn là của ai nữa?!” Thẩm Văn thấy cả hai chẳng những không tin, còn bảo vệ ta như thế, mặt mày sa sầm, tức giận nghiến răng ken két. Cuối cùng ánh mắt chuyển sang người vẫn đang đứng im như tượng—Bùi Độ. “Hừ! Là thật hay giả… Chúng ta sẽ sớm rõ thôi!” “Độ nhi, con mau nói thật với cha mẹ đi! Nữ nhân kia… cùng hai đứa nghiệt chủng đó—chẳng phải đều là kẻ lừa đảo hay sao?!” Bùi Độ liếc ta một cái, ánh mắt hờ hững lạnh lùng, rồi dừng lại rất lâu trên người Ngọc nhi và Châu nhi. Một lúc sau, hắn mới buông một chữ nhàn nhạt: “Phải.” Thẩm Ninh Sương mừng rỡ, tay siết chặt khăn lụa trong tay, hai mắt rực sáng lấp lánh. Thẩm Văn thì ngửa mặt cười lớn: “Ha ha ha ha…” Hai vị lão nhân phủ Bùi giật mình, bước chân loạng choạng: “Cái gì…?” Chỉ nghe một giọng nói trong trẻo như ngọc vang lên, từng chữ nện thẳng xuống đất, chắc nịch hữu lực: “Hai đứa nhỏ, là con ruột của ta.” Ta ngẩn người nhìn hắn, ánh mắt không rời nổi gương mặt ấy. Tất cả mọi người đều kinh ngạc, sắc mặt mỗi người mỗi kiểu, thay đổi liên tục như sóng cuộn. Thẩm Văn tức đến trợn trừng hai mắt, lỗ mũi phì phò bốc khói: “Nói bậy! Không thể nào!” Hai vị lão nhân phủ Bùi thì mừng rỡ vô cùng, ôm lấy hai đứa nhỏ hôn lên hôn xuống, cười đến nỗi râu tóc cũng rung rinh theo. Thẩm Ninh Sương bỗng đỏ hoe mắt, ánh mắt đầy ai oán nhìn về phía Bùi Độ: “Vậy… vậy ra… chuyện chàng và nàng… ở bờ sông Thanh Châu… là thật sao?” Ta trừng lớn mắt, trái tim vừa mới hạ xuống nay lại như bị treo lơ lửng nơi cổ họng. Mọi người xung quanh đồng loạt hóng hớt, ánh mắt như muốn đục khoét một cái lỗ trên người Bùi Độ. Đôi mắt hắn khẽ nheo lại, sắc mặt vốn thanh nhã nay đã sẫm đi vài phần. Hồi lâu, hắn mới miễn cưỡng thốt lên một tiếng: “Ừ.” Thẩm Ninh Sương cuối cùng không nhịn nổi nữa, bật khóc nức nở: “Vậy… đêm đó… thiên lôi dẫn lửa, đất trời hòa ái… hai người các ngươi… thật sự từng mây mưa giao hoan sao?!” Bùi Độ hờ hững liếc ta một cái, đáy mắt như vực sâu đen thẳm gợn sóng âm u: “Ừ.” Thẩm Ninh Sương không thể nghe thêm nổi nữa, òa khóc chạy vụt đi, hai tay che mặt, dáng vẻ đầy uất ức. Phụ thân Thẩm thị trợn trừng hai mắt, cũng tức đến nỗi hất tay áo bỏ đi trong giận dữ. Lão gia và phu nhân phủ Bùi thì lại tủm tỉm cười, liếc mắt trêu chọc ta một cái, rồi thuận tay xua đám người còn lại lui xuống hết. Chẳng mấy chốc, trong viện chỉ còn lại Bùi Độ, người mang theo luồng u ám phủ quanh thân… Và ta—đang hóa đá như tượng gỗ, ngây ra như kẻ mất hồn.