4. “Không được, không được!” Phụ thân ta dứt khoát từ chối ngay khi vừa nghe tên người kia. Thế nhưng Vương thẩm đâu dễ gì chịu buông. Thẩm quay sang hỏi ý ta, thấy ta mãi chẳng lên tiếng, đoán là còn chút do dự liêu xiêu, liền nói: “Cho con bé một đêm suy nghĩ, sáng mai ta lại tới.” Lúc ấy, chúng ta đang dọn sạp, chuẩn bị thu về, ta bỗng dưng buột miệng: “Cha, hay là... con gả đi cũng được.” Phụ thân hoảng hốt, vội đưa tay sờ trán ta, cứ ngỡ ta bị sốt đến mê man rồi. Nhưng ta vẫn tỉnh táo vô cùng. Ta biết rõ Lâm Thanh Tuyền là ai. Hắn vẫn thường đến quầy nhà ta mua thịt. Mỗi lần đều chỉ chọn phần thịt cũ từ hôm trước, hoặc đoạn cổ rẻ tiền lắm mỡ. Hắn chưa từng ngỏ lời xin khất, cũng chẳng hề chiếm lợi ai bao giờ. Biết được tính hắn như vậy, ta thường để riêng ra một miếng ba chỉ có nhiều mỡ ít nạc hơn một chút, dành cho hắn. Một hôm, hắn hỏi ta: “Cô nương xưng hô thế nào?” “Cao Thu Nhạn.” “Trời thu trong vắt, chim nhạn lướt ngang từng tầng mây… cái tên thật đẹp.” Lần sau đến mua, ta lại cắt thêm cho hắn một ít thịt, cân xong mới đưa. Hắn đón lấy, trầm giọng nói: “Đa tạ Thu Nhạn cô nương.” Cúi đầu xếp lại gói thịt, ta bỗng nhìn thấy trên mặt thớt có một túi gấm nhỏ, thêu một hàng chim nhạn bay cao, cánh sải dọc chân trời. Chẳng ai nói thành lời, nhưng giữa ta và hắn, tựa như đã ngầm có một sợi tơ mềm buộc lặng. Hắn dùng cách của riêng mình để hồi đáp tấm lòng ta. Thật may… hắn hiểu được sự dịu dàng ta trao. Ta nhẹ vuốt chiếc túi gấm, trong lòng bỗng như có gợn sóng khẽ lan, từng vòng từng vòng, ấm áp mà mênh mang. Mọi người đều gọi ta là “mụ mổ heo”, chỉ riêng chàng là nhẹ giọng gọi một tiếng: “Thu Nhạn cô nương.” Chiều muộn hôm ấy, ta lại trông thấy chàng. Dáng vẻ vội vã, chàng như đang tìm kiếm thứ gì đó, đi lướt qua từng quầy hàng một, cuối cùng đành thất vọng quay về. Chắc lại chẳng còn món rau rẻ tiền hay thịt thừa nào cho chàng lựa nữa rồi. Một bà cụ bán rau, dáng vẻ chất phác, cố nhét vào tay chàng một nắm rau xanh đã hơi héo: “Rau nhà trồng, không đáng bao nhiêu đâu. Công tử đừng ngại, cầm về nấu cho lão thái thái bát canh cũng được mà.” Lâm Thanh Tuyền không nỡ từ chối tấm lòng mộc mạc ấy, đành nhận lấy, chân thành nói lời cảm tạ: “Đa tạ bà. Mẫu thân ta thích nhất là canh rau xanh.” Trong lòng ta, chàng chẳng phải là kẻ đọc sách kiêu ngạo, đứng trên cao mà nhìn xuống thế tục. Cũng chẳng phải hạng người chen chúc buôn bán giữa chốn chợ búa. Trên người chàng tỏa ra một khí chất trầm ổn mà kiên cường, tựa như mầm cỏ mới nhú đầu xuân, âm thầm cắm rễ sâu giữa lòng đất, mộc mạc nhưng không dễ gì bứng bật. Phụ thân ta nhìn ta một lúc, như chợt tỉnh ngộ, bật thốt: “À! Ta hiểu rồi. Là con thấy người ta tuấn tú nên động lòng rồi phải không?” “Không không không! Con là vì cứu khổ cứu nạn.” Những điều thật lòng trong lòng ta, chẳng thể nói thẳng ra với cha được. Không thể chỉ dựa vào linh cảm của bản thân mà kết luận Lâm Thanh Tuyền là người tốt. Làm vậy quá đỗi liều lĩnh. Ta chỉ có thể giữ bình tĩnh, phân tích một cách rõ ràng: “Cha, trong mắt cha, nữ nhi là đứa con gái tốt nhất thiên hạ. Nhưng nói thật lòng, xét về dung mạo, về gia thế, về tài học chữ nghĩa, con chẳng có điểm nào nổi trội. Giờ lại thêm biệt danh ‘mụ mổ heo’, càng khiến không ít nam nhân phải tránh xa ba thước.” “Thay vì cố gắng gả vào nhà cao cửa rộng, chẳng bằng lựa chọn một người có điều kiện không bằng mình một chút, nhưng lại có tiềm năng. Nếu đánh cược mà thắng, nửa đời sau con sẽ được sống an ổn yên vui. Mà nếu thua… thì vẫn còn có cha, vẫn còn được làm con gái của cha mà nương tựa.” Phụ thân ta lặng đi một thoáng, rồi thở dài, giọng bùi ngùi: “Lời ấy không sai. Cha nuôi con cả đời cũng chẳng thấy thiệt.” Dẫu vậy, lòng người vẫn còn khúc mắc. Bởi cha nhớ rõ, phu quân trước kia của dì Phương cũng là một kẻ đọc sách. Hắn không chỉ moi sạch túi bạc nhà vợ, đến cả con gái ruột mình cũng bỏ mặc chẳng đoái hoài. “Lòng phụ bạc, phần lớn là từ lũ đọc sách mà ra. Ván cược con chọn, e rằng quá mạo hiểm!” Ta khẽ thở dài: “Gả chồng là chuyện cả đời, nhưng dẫu cưới ai, cũng đều là một ván cược lớn mà thôi.”   5. Phụ thân ta cuối cùng cũng không cãi lại được ta, đành lòng gật đầu đồng ý. Vương thẩm lập tức chạy sang nhà họ Lâm để báo tin. Nhờ có bà làm mối, hai nhà ngồi lại cùng ăn một bữa cơm, coi như chuyện hôn sự cũng định thành. Sau bữa ăn, Lâm Thanh Tuyền lục lọi trong chiếc hòm gỗ, lấy ra một chiếc trâm ngọc, cẩn thận cài lên tóc ta. “Thu Nhạn cô nương, chiếc trâm này là do ta chép sách, viết thư thay người mà đổi lấy. Dẫu có chút vết nứt, hoa văn cũng chẳng tinh xảo, song đó là thành ý lớn nhất của ta. Mong cô đừng chê.” Ta khẽ ấn tay lên túi áo bên ngực – nơi có chiếc khóa vàng hộ thân mà phụ thân từng trao – rồi lại nghĩ, lúc này lấy ra sợ sẽ khiến chàng khó xử. Liền vội vàng tháo sợi dây đỏ đang đeo trên tay xuống, đưa cho chàng: “Ta không biết thêu thùa, cũng chẳng giỏi kim chỉ, chỉ có sợi dây đỏ này là do chính tay ta đan. Mong chàng từ nay về sau được bình an vô sự.” Mẹ chồng tương lai lấy từ đáy hòm ra chiếc vòng bạc gia truyền tặng ta. Tay bà run run, mấy lần chạm vào nhưng chẳng sao đeo được. Cuối cùng vẫn là Lâm Thanh Tuyền cầm lấy tay ta, nhẹ nhàng đeo vào. Bàn tay chàng mát lạnh, những ngón tay khẽ chạm làm lòng bàn tay ta ngứa ngáy, tê tê như có điện chạy qua. Đến lúc chia tay ra về, mẹ chồng dặn Lâm Thanh Tuyền tiễn ta ra đầu ngõ. Hai đứa đứng sát nhau, tay nọ sắp chạm tay kia, còn chưa kịp dính lấy một khắc... Sau lưng đã vang lên một tiếng hét the thé: “Ngươi, ngươi… mau buông sư phụ ta ra!” Quay đầu lại thì thấy một tiểu nha đầu đứng đằng sau – chính là Tiểu Mãn, con gái của dì Phương, cũng là tiểu đồ đệ của Lâm Thanh Tuyền. Lần đầu tiên ta được thấy vẻ mặt giận dữ của chàng. Cổ chàng đỏ bừng, hai má cũng ửng lên, nhìn Tiểu Mãn vừa như trách mắng, lại vừa như năn nỉ: “Ngươi... mau quay về đi.” Chuyện ta và Lâm Thanh Tuyền đính hôn vừa truyền ra, người trong chợ trên xóm dưới đều nói cha con ta điên rồi. “Lão Cao à, thật sự muốn gả con gái cho Lâm tú tài sao? Người đọc sách mà, ngốn bạc lắm đó! Ta e là mỗi ngày bán năm con heo cũng chưa đủ cho hắn mua giấy bút đâu!” “Ta thấy rõ là hắn nhắm vào túi bạc nhà ngươi rồi!” Lại có gã độc thân họ Lưu, mắt gian mày chuột, không biết tự trọng cũng chen vào cợt nhả: “Này, mụ mổ heo! Biết sớm ngươi khát đàn ông đến thế, thì ta đã ra tay trước rồi! Nói gì thì nói, ta còn biết chiều người hơn cái gã tú tài mặt lạnh kia đấy!” Ta chẳng buồn nhiều lời, múc luôn một gáo bã thức ăn heo trong thùng, ụp thẳng lên mặt hắn: “Chỉ ngươi? Dù ta có xuống tóc vào chùa làm ni cô cũng chẳng liếc mắt nhìn một lần!” Hai bên nhà chẳng có ý kiến gì lớn, hôn sự nhanh chóng được định đoạt. Ngày mười tháng này, đúng vào tiết tốt cưới hỏi. Ta chẳng có kiệu hoa, cũng không mang khăn trùm đầu, càng không theo đuổi mấy thứ nghi lễ rườm rà. Chỉ mặc một chiếc váy đỏ, rồi tự mình đi sang nhà chồng. Ta nghĩ bụng, kỳ thi hương sắp đến gần, Lâm Thanh Tuyền nhất định đã để hết tâm trí vào sách vở. Việc cưới xin, đơn giản được thì cứ đơn giản. Nhưng ta không ngờ, gian phòng nhỏ kia lại được chàng dọn dẹp sạch sẽ, góc giường thay bằng chăn mới màu đỏ rực. Ta chẳng biết chàng đã phải chắt bóp từng đồng từ bao lâu mới dành dụm nổi một bộ chăn nệm tử tế thế kia. Ta không làm bộ làm tịch, chỉ cầm ly trà, nghiêng người dâng lên cho mẹ chồng, rồi lặng lẽ trở về phòng nghỉ ngơi.   6. Tới tận canh ba, Lâm Thanh Tuyền mới ôn bài xong. Chàng cởi trường sam, định lên giường nghỉ, thì bắt gặp chiếc túi gấm đặt trên bàn, ngạc nhiên hỏi: “Sao túi này lại ở chỗ nàng?” “Nếu không phải ở chỗ ta, lẽ nào ở tay người khác? Trên đó thêu đàn nhạn bay, chẳng phải chàng đưa ta lần trước sao?” Nghe thế, Lâm Thanh Tuyền chỉ cười ngây ngô. Dưới ánh nến chập chờn, giọng chàng khẽ như gió thoảng: “Vợ chồng là một thể, của nàng hay của ta nào có gì khác biệt?” Ta nghe xong trong lòng như có con mèo nhỏ đang cào nhẹ. Thì ra, hôn sự này... chẳng phải chỉ có mỗi mình ta một lòng một dạ. Chàng cởi áo, nằm xuống bên ta. Hai đứa giống như hai khúc gỗ, nằm cứng đơ bên nhau, im lìm chẳng nhúc nhích. Chuyện này... chẳng lẽ lại để ta chủ động trước? Ta âm thầm đếm trong lòng: một, hai, ba... ba... ba... nếu ta đếm tới năm mà chàng vẫn chưa nhích lại gần, thì ta... ta mặc kệ đấy nhé! May thay, chưa kịp đếm hết, chàng đã dịch lại sát bên. Không ngờ thân hình gầy guộc kia lại ẩn chứa sức lực đến vậy. Sợ ảnh hưởng chàng hôm sau lên lớp, ta không dám quấn quýt quá lâu, chỉ lặng lẽ vòng tay ôm lấy cánh tay chàng rồi chìm vào giấc ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Lâm Thanh Tuyền đã rời nhà đến thư viện. Mẹ chồng không hề thúc giục gì, chỉ âm thầm hâm sẵn một nồi cháo đậu xanh đợi ta dậy dùng. Ta bước ra, thấy bà đang lần mò định giặt váy áo giúp mình, liền vội vàng chạy đến ngăn lại: “Nương, người cứ an tâm nghỉ ngơi, mấy việc này cứ để con làm. Nhưng giờ con phải ra quầy bán thịt, trong nhà người nhớ giữ sức khỏe cho con yên lòng.” Mẹ chồng gật đầu bảo ta yên tâm, nói rằng từ xưa đến giờ, bà đều sống qua những ngày như thế. Ta bước ra khỏi sân, ngoảnh lại liền thấy mẹ chồng vẫn còn nghiêng đầu dưới khung cửa sổ, cố rướn cổ ngóng theo. Bà chẳng thể thấy dung mạo con trai – người hiền lành, sáng sủa như gió thu trăng sáng. Cũng chẳng thể thấy bóng dáng nàng dâu mới vừa bước qua cửa nhà mình. Không nhìn thấy cảnh sống vất vả thường ngày, chẳng rõ là vui hay buồn. Nghĩ đến đó, lòng ta thắt lại. Một người chẳng thấy ánh sáng, sống trong bóng tối thế kia, thì phải khổ sở biết nhường nào? Phải đến đêm qua, ta mới biết mẹ chồng vốn là một người phụ nữ mang mệnh khổ. Bà từng sinh tới sáu đứa con với người chồng trước, nhưng đứa nào cũng bạc mệnh, chưa kịp lớn đầy năm đã lần lượt qua đời. Có người bảo bà là mệnh trời sát phu khắc tử, vì thế bị nhà chồng trước đuổi đi không chút thương tiếc. Người chồng thứ hai của bà, cưới về chưa tròn hai năm đã ra trận, chết nơi sa trường, để lại trong bụng bà một đứa con chưa kịp chào đời – chính là Lâm Thanh Tuyền. Từ đó, bà một thân một mình, gắng gượng bươn chải nuôi con khôn lớn, gom từng đồng bạc lẻ cho con đi học đọc sách. Đôi mắt bà hỏng đi vì khóc quá nhiều, vì dùng quá mức, đến lúc muốn chữa cũng đã muộn rồi, chẳng còn đường quay lại. Ta nghe chuyện mà lòng đau như cắt. Quay bước trở vào, khẽ đỡ tay bà, cười nói: “Nương, theo con ra chợ đi. Ngồi bên nghe người ta cười nói cũng vui hơn ở nhà một mình nhiều lắm.” Từ dạo ấy, mẹ chồng ta đem lòng thương chốn chợ búa náo nhiệt kia. Ở đó, tiếng rao gọi, tiếng người cười đùa, không khí sống động, rộn ràng, hơn hẳn căn nhà vắng lặng đơn độc. Bà ngồi ngoan ngoãn ở một bên, lặng lẽ nghe ta chặt xương, cân thịt, đếm tiền. Cũng có kẻ bỉ bôi, nói móc ta: “Mụ mổ heo lại dắt theo bà mẹ chồng mù đến chợ rồi kìa!” Lại có kẻ buông lời giễu cợt cay nghiệt hơn: “Con trai bà giỏi thật đấy. Một câu nói khéo đã lừa lấy cả gia sản béo bở nhà mổ heo. Đúng là lời ít mà lãi nhiều!” Ta giận quá, liền giơ dao mổ heo lên, mắt lạnh quắc: “Ngươi lải nhải thêm nửa câu nữa, ta cắt phăng cái mũi chó của ngươi!” Mẹ chồng kéo nhẹ tay áo ta, khẽ lắc đầu: “Không sao đâu, con đừng vì mấy lời ấy mà bẩn lòng.”