9. “Phó Thế Hoài, có lẽ chàng ít ở kinh thành, nên không biết.” Ta khẽ nhắm mắt, chậm rãi thở ra một hơi. “Nữ tử mất danh tiết, vốn nên lấy cái chết để giữ danh dự. Chàng cưới ta, đối với ta đã là đại ân. Huống chi, khi xưa chàng còn cứu ta dưới Khuynh Ngọc đài.” “Ta…” Ta hé môi, nhưng lại chẳng biết nên nói gì. Thừa nhận rằng mình vốn đáng chết, quả thật khó lòng thốt ra. “Nói năng hồ đồ!” Tiếng quát lớn bất ngờ của Phó Thế Hoài làm ta giật nảy người. Thấy ta sợ hãi, hắn lập tức im lặng, giọng lại trở về ôn hòa như thường. “Bây giờ nàng là thê tử của ta. Ai dám nói một câu nàng nên chết, ta sẽ lập tức xé nát miệng kẻ đó.” “Dịch Vọng Thư, nàng cứ nhìn cho kỹ. Từ nay về sau, nàng chỉ cần sống cho vui vẻ, muốn gì cứ làm, không cần để tâm tới những lời nhơ bẩn ngoài kia.” “Nàng là nữ tử tốt nhất thế gian này, sẽ không có ai hơn được nàng đâu.” Ta đứng sững tại chỗ. Từ nhỏ đến lớn, điều ta nghe nhiều nhất chính là: ta vẫn chưa đủ tốt. “Thư nhi, nét chữ con viết mềm yếu lỏng lẻo, người ta nhìn vào làm sao xứng với thế tử nhà họ Kỷ?” “Thư nhi, không được tự mãn, ngoài kia còn biết bao nữ tử tốt hơn con.” “Thư nhi, vì sao trong yến hội mùa xuân, lại để tiểu thư nhà họ Tạ đoạt giải nhất?” “Thư nhi, đừng để gia tộc vì con mà phải mang nhục…” Từng lời, từng chữ, từng câu từng đoạn, đều hóa thành những sợi dây vô hình trói chặt lấy ta. Càng vùng vẫy, lại càng siết chặt, không có lối thoát. Chưa từng có ai nói với ta rằng, sẽ không có người nào tốt hơn ta. “Đừng khóc, Vọng Thư…” Trên đỉnh đầu vang lên một tiếng thở dài nhẹ, một bàn tay to lớn dịu dàng lau đi giọt lệ nơi khóe má. Lòng bàn tay ấy có vết chai sần, chạm vào da khiến ta ngưa ngứa, thế nhưng không hiểu vì sao, ta lại cảm thấy bản thân mình, dưới tay hắn, dường như là vật báu được trân quý nhất trên đời. Thì ra… ta đã khóc rồi. Nhưng… vì sao vậy? Ta và hắn vốn chẳng có giao tình sâu nặng gì, vì cớ chi hắn lại tốt với ta đến vậy? Ta không dám hỏi. Sợ rằng nếu hỏi ra rồi, tất cả những điều dịu dàng này… sẽ chỉ là một giấc mộng hão huyền, thoảng qua trong cơn mê.   10. Lời hứa của Phó Thế Hoài quả thật hiệu nghiệm. Những ngày sống tại Bách Dược thành, ta trải qua một cuộc sống mà trước kia chưa từng dám mơ đến — tự do, không ràng buộc. Vừa tiếp nhận việc quản lý nội vụ trong phủ từ tay quản gia, ta vừa có thể tùy ý ra ngoài, dạo bước trong thành. Không còn phải che mặt bằng mũ trùm nặng nề, cũng không cần né tránh trà lâu chỉ vì sợ lời dị nghị. Ta cũng không cần phải vì cái gọi là “thanh tâm quả dục” mà thường xuyên để bụng rỗng. Thậm chí, trong phủ cũng chẳng có đứa con riêng nào như lời đồn. Chỉ là những đứa trẻ mồ côi do Phó Thế Hoài cưu mang — con cháu của những người đồng đội đã hy sinh ngoài chiến trường. Bọn nhỏ đều rất hiểu chuyện, mỗi lần gặp ta đều lễ phép chào hỏi ngọt ngào, có lúc còn ôm tới một con thỏ nhỏ, nói muốn tặng ta làm thú cưng. Phó Thế Hoài thường bảo, chỉ cần ta sống vui là đủ, chẳng cần phải làm gì cho hắn cả. Thế nhưng sau nhiều ngày suy nghĩ, ta quyết định mở một ngôi học đường. Nơi biên ải binh đao rình rập, việc đọc sách vốn đã không dễ. Trong thành lại càng hiếm người theo nghiệp đèn sách, mà học phí thì lại đắt đỏ. Chi bằng lập nên một thư đường nhỏ, để bọn trẻ sau khi luyện võ vẫn có thể học vài con chữ. Sau này nếu muốn học sâu hơn, chí ít cũng không đến nỗi mù tịt mọi thứ. Ta cứ ngỡ việc xuất đầu lộ diện như vậy sẽ bị Phó Thế Hoài phản đối. Thậm chí còn chuẩn bị sẵn phương án tìm thầy dạy thay, bản thân thì không ra mặt. Không ngờ, hắn chẳng nói một lời dư thừa, liền cho người tìm một tiểu viện gần phủ tướng quân, lập thành thư đường. Trẻ con đến học ngày một đông, chẳng bao lâu sau cũng có những lão phu tử tự nguyện tìm tới. Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, thư đường đã dần có tiếng tăm ở vùng lân cận, bắt đầu thu nhận cả trẻ nhỏ trong dân gian. Cho đến khi triều đình hạ chỉ, phái một vị tân tri huyện từ kinh thành tới, thì ta đã có thể mặc nam trang thuận tiện, thoải mái qua lại khắp phố phường. Người trong thành gặp ta đều gọi là “Dịch phu tử”, chứ chẳng ai gọi là “Phó phu nhân”. Chỉ không ngờ, vị tri huyện mới đến, được đồn là xuất thân cao quý, đến biên ải để lấy công trạng, lại chính là Kỷ Nam Khâm. Hắn đến vào một ngày ta đang giảng bài trong thư đường. Giữa tiếng đọc bài vang vọng, trong âm thanh ve mùa hạ văng vẳng ngoài khung cửa, ta khẽ xoay người. Đập vào mắt là một thân quan phục chỉnh tề, phong thái vẫn cao quý không chút tì vết — chính là Kỷ Nam Khâm. Hắn lập tức nhận ra ta, trong mắt tràn ngập kinh ngạc. “Tham kiến tri huyện đại nhân.” Ta không khom mình cũng chẳng kiêu ngạo, bước ra chặn đám học trò đang tò mò thò đầu ra phía sau. “Đã lâu không gặp... Vọng Thư...”   11. Ta và Kỷ Nam Khâm đính hôn từ thuở nhỏ. Do trưởng bối hai bên định đoạt, mai mối lời vàng, không thể làm trái. Ta không biết hắn có tính là người tốt hay không. Chỉ biết, số phận của ta là làm chủ mẫu nhà họ Kỷ, là thê tử của Kỷ Nam Khâm. Hắn tuổi trẻ tài cao, văn võ song toàn. Ta cũng luyện cầm kỳ thư họa, không môn nào không tinh thông. Hắn là thiếu niên vô song nơi kinh thành. Ta cũng là tiểu thư quan gia hiếm hoi được cung đình ban ân sủng. Giữa ta và hắn, chưa từng có lời yêu, lời hẹn, lời thề. Chỉ có một chữ: xứng. Mẫu thân ta từng nói, không ai hợp với Kỷ Nam Khâm hơn ta. Phu nhân nhà họ Kỷ cũng từng nói, ta và Nam Khâm là trời sinh một cặp. Nhưng nếu có một ngày, chúng ta không còn xứng đôi nữa thì sao? Ta không phải chưa từng nghĩ đến câu hỏi ấy. Thuở nhỏ, ta đã từng hỏi. Mẫu thân khẽ cười, nhẹ tay vuốt qua đỉnh đầu ta, ánh mắt nhìn ta như đang đánh giá một món bảo vật trong các lầu quý hiếm. “Không bao giờ có ngày đó.” Bà nói vậy. Khi xưa ta không hiểu, vì sao bà lại chắc chắn đến thế. Đến hôm nay ta mới hiểu. Sẽ không có ngày đó — Bởi nếu thật sự có, thì bà sẽ khiến thế gian này không còn tồn tại người tên là Dịch Vọng Thư.   12. Ta không phải chưa từng hận Kỷ Nam Khâm. Nói ra thì, ngày nhận được tờ hưu thư ấy, ta hận hắn thấu xương. Hận hắn nhẹ nhàng phủi sạch một lời hôn ước, đoạn tuyệt con đường duy nhất còn sót lại của ta. Hận hắn ngoảnh mặt làm ngơ, không cho ta lấy nổi một chút che chở. Nhưng giờ phút này, khi gặp lại, lòng ta lại bình thản đến lạ. Ngược lại, khi nhìn thấy Phó Thế Hoài thở hổn hển chạy tới, mồ hôi ướt đẫm trán, ta lại không nhịn được mà bật cười. Không ngờ Kỷ Nam Khâm lại quay người, chất vấn ngay kẻ đến sau. “Ngươi đã cưới Vọng Thư, sao còn để nàng thành ra thế này?” Vừa nói, hắn vừa giận dữ chỉ vào bộ nam trang trên người ta, đôi mắt đầy bất mãn nhìn thẳng Phó Thế Hoài. “Ngươi có biết nàng từng là tiểu thư kiệu vàng áo gấm, vải vóc tơ lụa, chưa từng phải chịu nửa phần khổ sở như vậy không!” Lời này vừa dứt, mọi người đều ngơ ngác, chẳng hiểu chuyện gì. Cuối cùng vẫn là Điểm Mặc phản ứng nhanh, gan lớn buột miệng đáp trả. “Kỷ thế tử, chuyện tướng quân nhà chúng tôi đối xử với phu nhân ra sao, e rằng không tới lượt ngài can dự. Còn nói đến chuyện ai khiến phu nhân chịu uất ức nhiều nhất, thì trong thiên hạ này, chắc không ai hơn ngài được đâu…” Sắc mặt Kỷ Nam Khâm tái đi một chút, quay sang nhìn ta, lời muốn nói như nghẹn lại nơi cổ họng. “Vọng Thư…” “Thế tử xin giữ lễ, xin gọi ta là Phó phu nhân.” Ta hơi cúi mình, giọng nói không cao không thấp, vừa dứt lời thì Phó Thế Hoài đã sải bước tới, che chắn ta sau lưng. Thân hình cao lớn của hắn chắn trước ta, vững chãi như một bức tường, che ta kín kẽ đến nỗi không ai nhìn rõ Kỷ Nam Khâm rời đi từ lúc nào. “Thế tử mới nhậm chức, sự vụ bề bộn, vẫn nên đến nơi nên đến. Đừng suốt ngày dây dưa với phụ nhân nhà người khác.” Ta không cần biết sắc mặt Kỷ Nam Khâm lúc đó ra sao nữa. Thứ khiến tim ta không nén được vui mừng, lại là thái độ của Phó Thế Hoài.