4. Rời khỏi kinh thành, việc đầu tiên ta làm là đến nha môn xóa bỏ thân phận nô tịch. Sau đó lại đến Hồi Xuân Đường bốc một đơn thuốc trị hàn khí. Đó là hậu quả ta để lại suốt bảy năm qua – không quản ngày hè nóng bức, đêm đêm vẫn phải canh chừng bên giường hắn, chịu gió lạnh thấm vào người. Không phải bệnh nặng, nhưng hễ tới mùa đông thì lại muốn lấy mạng người. Lão y có râu dê, sau khi bắt mạch kê thuốc liền cẩn thận căn dặn: “Âm hàn nhập thể, có thể nhẹ thì cảm mạo, nặng thì khó sinh con. Nếu cô nương còn muốn giữ lấy thân thể khỏe mạnh, sau này nhất định phải chú ý dưỡng sinh, tránh để nhiễm lạnh nữa.” Ta gật đầu lĩnh ý, trả tiền định rời đi. Nào ngờ đồng bạc đưa ra, vừa mới chạm bàn tay, liền bị tiểu nhị nhận ra nét khắc trên đồng tiền. “A! Đây là bạc của nhà họ Tống! Nghe nói thiếu gia nhà ấy mới khỏi bệnh, giờ đã khỏe mạnh như người thường rồi phải không?” Ta không muốn dây dưa, liền trả lời qua loa: “Không rõ lắm.” Gã tiểu nhị bị chặn mất hứng, cũng chỉ cười gượng rồi lẩm bẩm: “Vậy cô nương chắc không phải người trong nội viện Tống gia rồi. Nếu là người trong đó, thể nào cũng biết chuyện. Nghe đâu bên cạnh thiếu gia Tống gia có một nha hoàn chăm sóc rất tận tình, thậm chí còn có hôn ước với thiếu gia nữa.” “Hửm… tôi đoán, thiếu gia họ Tống khỏi bệnh, chắc cũng nhờ vị cô nương kia một tay chăm sóc. Kinh thành này, mấy thiếu gia nhà danh môn cũng hay bệnh lắm. Như thiếu gia họ Thôi chẳng hạn, tuổi còn trẻ mà đã mắc bệnh chân. Nếu bên cạnh có người tận tâm như vậy, chưa biết chừng…” “Ơ kìa, cô nương, đi rồi à?” Ta nhận tiền thối lại, xoay người bước đi dứt khoát, sợ thêm một câu sẽ lại dây dưa với cái tên Tống Trường An ấy. Dù sao, hôm đó ta đã thề rất rõ ràng — một khi đã dứt, tuyệt không vướng lại nửa phần. Thuốc đã có, vốn định đi đường thủy về Túc Châu, ai ngờ mới tới đầu ngõ, đã bị một người chặn lại. “Thất lễ! Nhưng không hay cô nương có phải là Minh Nguyệt tiểu thư không?” Người lên tiếng là một tiểu đồng mặc áo lam, gương mặt mang theo nụ cười thân thiện, khiến người ta không nỡ cự tuyệt. Ta khẽ khom người thi lễ: “Chính là ta. Công tử đây là...?” Người kia cười nhẹ: “Không dám nhận một tiếng công tử. Tiểu nhân là Chấp Kỳ, người hầu thân cận bên nhị công tử nhà họ Thôi – Thôi Hằng. Hôm nay đặc biệt đến tìm cô nương, là có việc quan trọng muốn thưa.” Từ khi vào Tống phủ, ta gần như chưa từng tiếp xúc qua ai ngoài Tống Trường An, càng không quen biết gì với vị công tử họ Thôi nào. Ta thoáng nghi ngờ: “Không biết có chuyện gì?” Chấp Kỳ chắp tay hành lễ, không vòng vo: “Cô nương đã hỏi, tiểu nhân xin nói thẳng.” “Công tử nhà ta thuở nhỏ từng bị thương ở chân, tuy sau này có đỡ, nhưng dạo gần đây vết cũ tái phát, lại không tìm được người thích hợp hầu hạ.” “Nghe nói công tử Tống gia đã hồi phục, lại cũng nghe rằng cô nương đã được cho rời phủ.”   “Lại nói, cô nương từng làm việc tại Tống phủ suốt bảy năm, chưa từng sơ suất nửa bước, hẳn là người chu đáo nhân hậu, có lòng có đức.” “Vì vậy, công tử nhà ta đặc biệt sai tiểu nhân đến đây, xin mời cô nương về phủ. Nếu cô nương đồng ý, chủ nhân cam đoan sẽ không bạc đãi.” “Dù trước đây Tống gia trả bao nhiêu tháng bạc, thì nay Thôi phủ sẽ trả gấp ba lần.” “Không biết cô nương có đồng ý chăng?”   Ta siết chặt gói thuốc trong tay, chạm nhẹ vào chiếc tay nải — bên trong chỉ còn lại vài đồng bạc vụn. Cuối cùng, ta không thể chống lại cám dỗ ấy, gật đầu: “Ta đồng ý... nhưng —” Ta ngẩng mặt, ánh mắt bình tĩnh: “Ta có một điều kiện.”   5. Phủ nhà họ Thôi nằm sâu trong hẻm Vũ Hoa, nơi hẻo lánh nhất kinh thành. Bên trái là hồ, bên phải tựa núi. Nhà cửa lợp ngói xanh, tường gạch xám tro, khung cảnh yên bình đến lạ, như bị tách biệt khỏi thế gian ồn ã. Chấp Kỳ đưa ta rẽ qua mấy lối quanh co trong phủ, lại xuyên qua một cổng hoa rủ mềm mại, mới dẫn đến nơi ở của nhị công tử mà hắn từng nhắc đến. Tháng Sáu, trời mưa dày như khói sương, mờ mịt phủ khắp. Vị Nhị công tử họ Thôi ấy ngồi ngay trước cửa sổ, lặng lẽ đun trà bên lò than. Hơi nước bốc lên lững lờ, hòa cùng hương trà thanh đạm, làm dung mạo thanh tú của chàng như được ánh sương bao phủ, trông chẳng khác gì một khối ngọc ấm. “Cô nương đây là... Minh Nguyệt?” Ta khẽ cúi người thi lễ: “Khởi bẩm công tử, chính là nô tỳ.” Thôi Hằng khẽ ho mấy tiếng, giọng nói trong trẻo nhưng có chút yếu nhược: “Hôm nay mời cô nương đến, hẳn Chấp Kỳ đã nói rõ mọi sự.” “Nếu cô nương nguyện ý, Thôi mỗ tuyệt đối sẽ không bạc đãi. Còn nếu không muốn, Thôi mỗ cũng quyết chẳng ép cầu.” Năm xưa ta ở lại Tống gia là bởi thân bất do kỷ, còn nay đến Thôi gia, lại là điều ta có thể chọn lựa. Tay ta siết chặt chiếc tay nải, ánh mắt nhìn vào ngôi nhà rộng lớn trước mặt, trong lòng bỗng dâng lên một tia dè dặt. Thôi Hằng nhìn ra nỗi lưỡng lự của ta, khẽ mỉm cười: “Nếu cô nương còn có điều gì đắn đo, cứ nói thẳng là được.” Ta nghĩ một lúc, cuối cùng vẫn không nhịn được mà hỏi: “Nếu ta vào phủ… có phải bán mình? Nếu hầu hạ không chu toàn, có bị bắt quỳ hay chịu phạt không?” Thôi Hằng đáp: “Không cần bán thân. Càng không có chuyện phạt quỳ.” Thật sao? Trên đời... có chuyện tốt như thế sao? Thôi Hằng ngẩng mặt nhìn ta, sắc mặt nhợt nhạt, ánh mắt ôn hòa — như tuyết mỏng phủ trên lò gốm đất đỏ, trầm ấm dịu dàng. “Đương nhiên là thật. Trong phủ này, ngoài ta ra cũng không còn ai khác. Cô nương không cần lo sẽ bị người khác hà khắc đối đãi.” Lúc này ta mới yên lòng. Ngẫm nghĩ kỹ lại, quả thật đây là một công việc không thể tốt hơn. Không cần bán mình, không lo chịu phạt, lại được gấp ba tháng bạc. Dẫu có cầm mười chiếc đèn lồng, cũng chưa chắc tìm được một nơi tử tế như vậy. Thế là ta không chần chừ thêm nữa, lập tức đáp ứng. Từ đó, ta trở thành nha hoàn thân cận của Thôi Hằng.   Hỏi đến thương thế nơi chân của nhị công tử, Chấp Kỳ chỉ đáp qua loa, rằng năm xưa công tử té ngựa, khiến chân bị thương. Dù sau này đã hồi phục, nhưng vẫn để lại di chứng. Ngày thường thì không sao, nhưng cứ đến lúc mưa gió trở trời, là đau nhức tận xương, cả đêm không ngủ nổi. Chấp Kỳ tuy tận tâm, nhưng suy cho cùng cũng là nam tử, có những việc không tiện chu toàn. Nhà họ Thôi cũng từng thử mời các nữ tỳ đến hầu hạ sát bên, nhưng đều không lọt vào mắt nhị công tử, cuối cùng đành thôi. Mãi đến khi nghe tin Tống công tử đã khỏi bệnh, họ mới nghĩ tới việc tìm ta — rồi phái Chấp Kỳ đi mời. Không ngờ lại tìm đúng người thật. Nếu chẳng phải Thôi Hằng kén chọn như thế, thì có nữ tỳ nào lại bỏ việc sáu lượng bạc mỗi tháng không làm? Nghe đến đây, ta hơi chột dạ, thầm nghĩ lúc mình gật đầu… hình như hơi vội vàng quá. Ta từng nghĩ Thôi Hằng là người khó hầu hạ, không ngờ... lại hoàn toàn không phải vậy. Ngày đầu hầu hạ, ta liền nắm rõ tính tình và thói quen của Thôi Hằng. Biết nói năng, biết lý lẽ; mưa thì biết tìm chỗ che, trời nóng thì tự thay áo mỏng. Chỉ mấy điều ấy thôi, đã hơn Tống Trường An không biết bao nhiêu lần. Quan trọng hơn cả, hắn xuất thân từ Thôi thị Thanh Hà, dù chỉ là chi bên, nhưng rốt cuộc vẫn là dòng dõi thế gia, từ nhỏ đã được dạy dỗ lễ nghi chu toàn. Cũng bởi vậy mà hắn mang dáng vẻ ôn nhã như ngọc, phong thái đoan chính như quân tử. Ta hầu hắn ăn uống, thay áo chỉnh y, câu nghe nhiều nhất không ngoài: “Làm phiền.” “Đa tạ.” “Vất vả rồi.” Có lẽ bởi đã làm thân phận thấp hèn quá lâu, đột nhiên được đối xử như một con người, ta... lại có chút không quen. Vô thức vẫn tự xưng là “nô tỳ”. Thôi Hằng bèn nói: “Cô nương đã được Tống phủ trả lại khế ước, chẳng còn là người của họ nữa. Nay ở Thôi phủ, cô cũng không cần xem mình là tỳ nữ. Cứ coi như người bình thường là được.” Những lời này, ta từng nghe không ít lần. Khi còn ở Tống phủ, Tống lão gia cũng từng nói như vậy. Rằng nếu đã đính hôn với Tống Trường An, thì không được xưng “nô tỳ” nữa — nếu không, chẳng phải làm mất mặt cả Tống gia sao? Khi ấy ta đáp: “Nếu lão gia cho rằng cưới một nô tỳ là sỉ nhục cho Tống phủ, thì xin cứ đến quan phủ trước, xóa tên ta khỏi sổ nô tịch đã rồi nói tiếp.” Tống lão gia nghe xong không đáp một lời, chỉ phất tay áo bỏ đi. Còn Triệu thị thì bảo — ta tuy là nô tỳ, nhưng đã được hưởng vinh hoa trong phủ, về sau phải biết ghi nhớ ơn đức của Tống gia mới phải. Vì thế ta lại hỏi tiếp: “Nghe nói hôm qua trong phủ có nhập về một xấp gấm mới, không biết... có thể cho nô tỳ xin một tấm may y phục không?” Triệu thị không đáp, chỉ giả vờ nhìn sang nơi khác, lảng sang chuyện khác. Ngay khi ấy, ta đã hiểu — vợ chồng nhà ấy, dẫu ngoài mặt chẳng hòa thuận, nhưng kỳ thực đồng một giuộc cả thôi. Có những lời nghe thì hay lắm, nhưng lòng dạ thế nào… lại là chuyện khác. Bởi vậy, dù Thôi Hằng cư xử ôn hòa, lời nói dễ nghe, ta vẫn không dám hoàn toàn tin tưởng. Mãi đến đêm đầu tiên canh gác, ta mới thực sự hiểu được — Thôi Hằng ôn hậu đến nhường nào. Chiếc ghế nằm dùng để trực đêm được phủ đệm mềm. Bên cạnh còn đặt một chiếc bàn nhỏ, trên đó bày sẵn trà nóng. Thậm chí, như sợ người trực đêm mỏi lưng, hắn còn chuẩn bị cả gối mềm để ta chợp mắt. Mà trong Tống phủ khi trước — chưa từng có những thứ ấy. Không có đệm, không có trà, càng không có gối.