4. Tối hôm ấy, Dung Đế lật thẻ bài của ta, vừa định nghỉ lại trong điện Thái Tang. Cừu công công từ Khôn Ninh cung vội vã chạy đến truyền lời: “Bệ hạ, Hoàng hậu nương nương lại tái phát bệnh cũ, thỉnh ngài qua xem một chút.” Khi Dung Đế rời đi, tuyết ngoài trời đã ngừng rơi, trời đất quang đãng, trong vắt một mảnh. Ta cầm lấy chiếc áo đang may dở cho Diễm nhi, tiếp tục khâu nốt. Sau khi Dung Đế đi rồi, Diễm nhi rụt rè đứng nép bên tường, quan sát sắc mặt ta: “Mẫu phi đừng giận, Diễm nhi sẽ giành phụ hoàng về lại cho người.” Ta nhét trái quýt đang hơ ấm bên bếp vào tay nó để sưởi, mỉm cười: “Mẫu phi không giận, ngủ sớm đi.” “Hoàng thượng đi rồi, còn bớt một người tranh đồ ăn khuya với mẫu phi đấy.” Suy cho cùng vẫn là trẻ nhỏ, vừa nghe nhắc đến ăn liền phân tâm. Diễm nhi kéo chăn trùm lên đầu, khẽ làm nũng: “Vậy... mẫu phi, ngày mai con muốn ăn thịt dê xào hành, được không?” “Được.” Trưa hôm sau, ta xào một đĩa thịt dê hành tươi, lại dùng mỡ bò chiên bánh áp chảo. Bánh chiên vàng đều hai mặt, thơm nức. Ta bưng thêm một bát canh xương dê, đặt trước mặt Diễm nhi. Diễm nhi khẽ nhíu mày, lại liếc nhìn ta một cái, như thể hạ quyết tâm điều gì đó, rồi lặng lẽ bưng bát canh uống cạn từng ngụm một. Chỉ trong thời gian một chén trà, Diễm nhi đột nhiên nôn mửa không ngừng, rồi lại đi tả, cả người bắt đầu nổi mẩn đỏ. Thằng bé yếu ớt nằm trên giường, vậy mà vẫn cố gắng gượng dậy, mỉm cười khoe công: “Mẫu phi, Diễm nhi bệnh rồi, người có thể đi mời phụ hoàng đến rồi.” Mời Dung Đế đến thì có ích gì? Người đâu phải thái y. Lúc ta đang nóng ruột như lửa đốt, Cừu công công đã đứng chờ sẵn bên ngoài điện Thái Tang, cười híp mắt truyền lời thăm hỏi của Hoàng hậu: “Tam hoàng tử bệnh nặng, chi bằng chờ bệ hạ hạ triều, nương nương sẽ thay quý nhân truyền lời, mời người đến thăm điện Thái Tang một chuyến?” Ta còn đang lo cho bệnh tình của Diễm nhi, lấy đâu thời gian chải đầu rửa mặt, tề chỉnh trang phục để nghênh giá? Ta khách khí đáp lại Cừu công công: “Tạ ơn nương nương đã quan tâm. Nhưng thần thiếp còn phải chăm sóc Diễm nhi, không dám làm phiền đến bệ hạ.” Vừa nghe ta từ chối, nụ cười trên mặt Cừu công công liền cứng lại, lặng lẽ lui xuống, vẻ mặt mất hứng rõ rệt. Thái y kê hai đơn thuốc, uống cả ngày đến tận tối vẫn không thấy chuyển biến. Không biết vì sao, trong lòng ta cứ thấy Diễm nhi như đang che giấu điều gì đó. Ta vội bảo người đi mời Trần mụ mụ. Trần mụ mụ từng chăm sóc nhiều đứa nhỏ, kinh nghiệm dày dặn. Bà hỏi kỹ lại việc ăn uống, lại hỏi có phải Diễm nhi bị nhiễm phong hàn không. Loại trừ từng khả năng, cuối cùng chính bà cũng thấy bệnh tình lần này có phần quái lạ. “Mẫu phi không mời phụ hoàng... là vì con bệnh chưa đủ nặng sao?” Diễm nhi nằm trên giường, ánh mắt đầy bất an nhìn ta. Nghe xong câu ấy, sắc mặt Trần mụ mụ lập tức thay đổi, vội kéo ta sang một bên, hạ giọng nói nhỏ: “Quý nhân có biết vì sao Quý phi nương nương bị phế không?” Ta từng nghe đôi chút về những lời đồn xoay quanh chuyện thất sủng của Quý phi. Nói rằng Quý phi từng dùng xuân dược, nhờ đó mà được sủng ái liên tục, nhưng cũng khiến Hoàng thượng khó lòng có thêm con nối dõi.Nói rằng Quý phi lợi dụng hoàng tử để tranh sủng, thậm chí ngược đãi Diễm nhi, khiến người thương xót mà sinh lòng thiên vị. Khi nghe Hoàng hậu ngỏ ý sẽ giúp ta mời Dung Đế tới, ánh mắt Trần mụ mụ đầy hoảng hốt, miệng lẩm nhẩm niệm Phật không ngừng: “Quý nhân, những lời đồn mà người từng nghe... đều là sự thật.A Di Đà Phật, nếu khi nãy người thật sự đi mời Hoàng thượng, thì trong mắt Người, quý nhân cũng chẳng khác gì Quý phi năm xưa — đều là hạng đàn bà nhẫn tâm, lấy con cái ra làm công cụ tranh sủng.” Lưng ta lạnh toát, như thể từng đợt băng giá chạy dọc sống lưng. Nhìn ra nỗi sợ của ta, Diễm nhi lại hoang mang nhìn ta chằm chằm: “Tại sao con bệnh rồi mà mẫu phi không vui?” Bởi vì trong trí nhớ của nó, mỗi lần nó ốm, Quý phi đều rất vui mừng. Nghĩ đến dáng vẻ run rẩy sợ hãi của Diễm nhi khi Dung Đế rời đi đêm qua, lòng ta chua xót. Có lẽ, mỗi lần không giữ được Hoàng thượng, thằng bé sẽ trở thành nơi trút giận của Quý phi. Tim ta như bị ai siết chặt, chẳng thể trách thằng bé có lòng nhưng lại hỏng việc. Ta nhẹ giọng giảng giải thiệt hơn, đắp chăn lại cho nó, dịu dàng dỗ dành: “Vì Diễm nhi bệnh, nên mẫu phi mới lo lắng. Chỉ cần con khỏe lại, mẫu phi sẽ vui.” Diễm nhi cụp mắt, ra sức phân biệt giữa “vui” của ta và “vui” của Quý phi, rốt cuộc có phải cùng một thứ hay không. Ta đặt ấm chườm nhẹ lên bụng nó, dịu giọng hỏi: “Nói cho mẫu phi nghe, Diễm nhi vì sao lại bệnh?” Nó cười toe toét, vô tư như chẳng có chuyện gì xảy ra. Diễm nhi ăn hành và thịt dê vào là sẽ thành ra như vậy.“Không sao đâu, trước kia con cũng từng ăn rồi. Thịt dê đâu phải thạch tín, cùng lắm ăn vào khó chịu một chút, cũng chẳng chết được. Thịt dê do mẫu phi nấu ngon hơn trong cung Quý phi ngày trước. Mẫu phi cũng đối xử với con rất tốt, nên khi ăn con cảm thấy rất vui, thật đó.” Nghe những lời ấy, vết sẹo cũ nơi cổ tay ta—vết cắt năm xưa để lấy máu cứu Du nhi—cũng như nhói lên từng hồi. Giọng Diễm nhi nhỏ dần, nhỏ dần. Cuối cùng, nó chẳng nói gì nữa. Nó kéo chăn trùm kín đầu, chôn vùi cả nỗi chua xót và tiếng khóc nghẹn ngào trong đó. “Tại sao mẫu phi của các hoàng tử, công chúa khác đều thương con mình? Tại sao... đến cả Ôn nương nương người cũng thương con? Mà chỉ có... chỉ có người ấy... là không thích Diễm nhi?” Một cơn chua xót cuộn trào trong lòng ta. Ta không biết phải giải thích thế nào cho một đứa trẻ chín tuổi hiểu được thế nào là yêu, là hận. “Giống như hành và thịt dê vậy. Diễm nhi ăn vào sẽ thấy khó chịu. Nhưng đó không phải lỗi của con, cũng chẳng phải thứ con có thể quyết định được.” Trên đời này, mọi thứ đều có lý do. Hoa cỏ có mùa, trái cây có vụ. Chỉ riêng thương và ghét—lại như khẩu vị của con người, chẳng theo lẽ nào để luận. Dỗ dành thằng bé, cũng là tự an ủi chính mình. Diễm nhi khóc đến mệt lả, thiếp đi trong vòng tay ta. Trong cơn ác mộng, nó khẽ thì thầm gọi ta, giọng bé xíu như muỗi kêu, nói một câu khiến tim ta đau nhói: “Con xin lỗi, mẫu phi…” 5. Bệnh của Diễm nhi vừa khỏi, tiên sinh đã thúc mấy lần bảo trở lại thư phòng, nhưng thằng bé cứ ấp a ấp úng, không chịu đi. Ta mơ hồ đoán được là Du nhi đứng đầu xúi giục, không cho các hoàng tử công chúa chơi cùng Diễm nhi. Trẻ con ở tuổi này nào ai chẳng mong có bạn chơi. Lần trước ta mang bánh táo đến cho Du nhi, còn tận mắt thấy Diễm nhi đứng lẻ loi dưới bóng cây, ánh mắt đầy khát khao nhìn đám huynh đệ tỷ muội đang nô đùa phía xa. “Là Tứ đệ bắt con phải quỳ dưới đất học tiếng chó sủa, mới cho chơi cùng.” Diễm nhi cố làm ra vẻ rộng lượng, phẩy tay nói, “Trước kia thì không sao, vì quần áo vốn đã bẩn. Nhưng bây giờ là áo mẫu phi thức đêm khâu cho con, con không nỡ làm bẩn nó.” Thế giới của trẻ thơ, nhiều khi cũng phức tạp chẳng kém gì hậu cung. Ta bận rộn mấy ngày liền, nhét bạc vào tay Trần mụ mụ, nhờ bà giúp ta một chuyện. Trần mụ mụ miệng mắng tay đưa, trách móc không dứt: “Vì một đứa trẻ nửa đường nhận về, mà tự đưa mình lên chảo dầu mỡ, có đáng không?” Chiều hôm ấy, khi Dung Đế đến, vừa vén rèm lên đã ngửi thấy hương thơm ngọt ngào của mật đường lan khắp phòng. Trên giường là đống vải vừa cắt dở để may áo, trong bình hoa cắm vài chiếc đuôi trĩ lộng lẫy, bên cạnh rơi vãi mấy đồng tiền đồng. Bên lò sưởi nhỏ, quanh ta và Diễm nhi là một vòng những cái đầu nhỏ mềm mại, mấy hoàng tử công chúa ríu rít tranh nhau lên tiếng: “Ôn nương nương, con muốn con bướm!” “Ôn nương nương, con… con muốn hai cái kẹo hồ lô!” Ta cầm lấy cây kẹo hình vẽ, cố tình làm ra vẻ khó xử, chau mày nói: “Nhưng những que kẹo này đều là của Tam ca ca các con đấy, Ôn nương nương đâu có quyền làm chủ.” Công chúa thứ năm là Nguyệt nhi lanh lẹ nhất, lập tức ôm chặt tay Diễm nhi, nũng nịu nói: “Tam ca ca, huynh giúp muội năn nỉ Ôn nương nương có được không?” Có Nguyệt nhi làm gương, bọn trẻ lập tức túm tụm quanh Diễm nhi. Lần đầu tiên được các huynh đệ tỷ muội thân thiết như thế, gương mặt trắng bệch của Diễm nhi hiện lên vẻ bối rối, luống cuống quay sang nhìn ta cầu cứu. Ta nhét que kẹo vào tay Diễm nhi, khẽ gật đầu cổ vũ. Diễm nhi à, trên đời này có rất nhiều tình cảm không cần phải đánh đổi bằng lòng tự trọng hay sự tổn thương của chính mình. Ta vẫn lo rằng thằng bé sẽ chẳng thể vượt qua được bước đầu tiên ấy. Nhưng trẻ con vốn nhỏ bé, trí nhớ cũng chẳng dai lâu. Diễm nhi thật sự trông ra dáng huynh trưởng, đường hoàng chia kẹo cho các đệ muội.Đến cả phần của mình cũng đưa cho Nguyệt nhi, rồi dặn dò: “Que này nhờ Nguyệt nhi mang cho Tứ đệ Du nhi, không được ăn vụng đấy nhé.” Nó quay đầu nhìn ta, ánh mắt tràn đầy chờ mong muốn được khen ngợi. Ta lại nhìn thấy rõ ràng trong đó là sự lấy lòng đã thành thói quen. “Diễm nhi, con tự hỏi lòng mình xem, que kẹo này con thật sự muốn tặng Tứ đệ? Hay là con chỉ sợ mẫu phi không vui?” Thằng bé im lặng không nói, một hồi lâu sau mới lí nhí: “Không muốn cho... nhưng sợ mẫu phi buồn.” Ta cầm lại que kẹo trong tay Nguyệt nhi, đưa trả cho Diễm nhi: “Nếu con bỏ qua cảm xúc của mình, đó mới là điều khiến mẫu phi buồn. Đây là kẹo của con, không muốn cho, thì cứ giữ lại.” Diễm nhi gật đầu thật mạnh, cắn que kẹo trong tay phát ra một tiếng rắc giòn tan. Ta quay đầu lại, chợt thấy Dung Đế đang đứng sau bình phong, vội vã quỳ xuống hành lễ. Dung Đế khoát tay miễn lễ, ánh mắt có phần hứng thú, hỏi chúng ta đang làm gì. Nào là thắt lông gà đá cầu, nào là vẽ kẹo, nào là cắt may áo quần. Người nhìn mấy bức kẹo hình méo mó trên bàn, như bị khơi lại vài ký ức tuổi thơ, khoé môi cong lên, khẽ cười.