10. Ta dừng chân tại một miếu Sơn Thần hoang phế bên ngoài thành. Thật sự… ta không còn kéo nổi nữa. Nơi này vắng vẻ hẻo lánh, cũng xem như tạm thời an toàn. Một gậy ấy, ta đã dốc hết khí lực toàn thân. Đến khi Thẩm Khước dần tỉnh lại, trời đã gần sập tối. Chàng nhìn bộ áo vải thô được ta thay cho, lại nhìn dáng vẻ ta lúc bấy giờ — đầu tóc rối bù, bụi đất đầy mình, chớp mắt liền hiểu rõ tất cả. “Tang Chi, gan của ngươi thật lớn!” Chàng vừa định ngồi dậy, cổ liền đau nhói, khiến chàng hít sâu một hơi lạnh. “Giỏi lắm, ngươi có bản lĩnh rồi!” Ta đưa qua tay chàng phần lương khô được ta ủ ấm trong lòng ngực suốt đường đi. Chàng phất tay gạt mạnh. “Tang Chi, ngươi vì sao lại làm vậy?” “Ta không thể rời đi!” “Chẳng phải như thế là càng khiến tội danh của ta thêm chắc chắn sao?!” Chàng nghiến răng, từng câu như rít qua kẽ răng. Ta nhìn thẳng vào chàng, lần đầu tiên không né tránh, không e dè. Tay vịn vào tường, ta thở hổn hển, nhưng vẫn dựng thẳng lưng, dõng dạc đáp lại ánh mắt chàng. Giọng ta sau cả ngày bôn ba đã trở nên khản đặc, ngắt quãng. Chẳng còn được lưu loát như trước, nhưng từng chữ đều rõ ràng vững chắc: “Ngài lưu lại chờ bị lưu đày… thì chẳng phải càng ngồi thật tội danh sao?” “Vương gia, từ trong ánh mắt của ngài, ta chẳng thấy chút ý định phản kháng nào cả. Vì sao vậy?” “Chẳng lẽ… chẳng lẽ ngài thật sự không còn vướng bận điều gì?” “Bà ngoại từng nói, còn giữ được núi xanh, ắt có ngày lại nhóm lửa.” Vừa dứt lời, ta thấy trong mắt chàng thoáng hiện một tia lo lắng: “Yết hầu của ngươi...?” Quả thực cả ngày chưa được uống nước, cổ họng đương nhiên khô khốc khản đặc. Nhưng đến lúc này rồi… chàng vẫn còn để tâm đến cổ họng ta ư? Ta khựng lại, hít sâu một hơi, rồi nhìn thẳng vào mắt chàng, cất lời: “Giờ ta… đã cứu ngài một mạng, vậy về sau ngài… phải sống vì ta!” Trong ngôi miếu nhỏ đổ nát, bỗng nhiên lặng như tờ. Thẩm Khước hoàn toàn sững sờ, đôi mắt đào hoa kia, trong phút chốc hiện lên kinh ngạc chưa từng có. E rằng chàng chưa từng nghĩ tới… sẽ có một ngày, bản thân chàng lại bị một nha hoàn câm từng hầu hạ mình, dễ dàng quyết định sinh tử. Thậm chí còn bị ép phải… sống vì nàng. Một lúc lâu sau, ánh lửa giận nơi mắt chàng dần tiêu tán, thay vào đó, là một cảm xúc phức tạp đến mức ta chẳng thể hiểu nổi. Chàng không phản bác, cũng không nói gì, chỉ trầm mặc nhìn ta. Nhìn phần lương khô vấy bụi dưới đất mà chàng vừa hất văng. Chàng nhẹ giọng nói: “Vậy thì… ta sẽ sống tiếp.” 11. Sau khi thoát khỏi kinh thành, những ngày tháng sau này… so với thời ta làm nha hoàn hạ đẳng tại phủ viên ngoại, còn khổ sở hơn gấp bội. Chúng ta nương thân trong một miếu Sơn Thần rách nát, gió lùa tứ phía. Ban đêm lạnh thấu xương, ta chỉ đành co mình ôm lấy đầu gối mà run rẩy. Thẩm Khước ngồi tựa bên đống cỏ khô phía đối diện, lưng thẳng tắp, nghiêm trang mà trầm lặng. Từ sau khi rời kinh, Thẩm Khước đã đổi thay rất nhiều. Khi xưa ở phủ họ Cố, chàng tuy độc miệng, nhưng còn giữ chút khí khái. Sau khi khôi phục thân phận hoàng tử, lại trở nên lạnh lùng khó dò. Mà nay… chàng lại trở nên ít lời đến đáng thương. Ta thậm chí có chút không quen. Chúng ta một đường xuôi về phương Nam. Có lẽ thật là báo ứng. Vừa đúng ngày thứ năm sau khi rời khỏi kinh, quân Hồ quả nhiên tiến công. Vị tân đế vốn ngày trước còn vỗ ngực hô vang chính nghĩa, nay lại giấu giếm thiên hạ, dẫn hoàng thất lặng lẽ đào tẩu về phương Nam, bỏ lại thành trì và bách tính. Hoàng thành thất thủ, không người chống đỡ, không lực xoay chuyển. Chúng ta nghỉ tạm ở một khách điếm nơi trấn nhỏ. Thời thế rối ren, khách phòng chỉ còn lại một gian. Không kịp để ý nam nữ khác biệt, đành cùng chung một phòng. Đây là lần đầu tiên sau nhiều ngày, ta mới được nằm trên giường mà ngủ. Ta đổ toàn bộ đồng tiền, bạc vụn và vài món trang sức bằng vàng ngọc ra bàn. Dưới ánh đèn dầu leo lét, ta học theo cách Thẩm Khước từng dạy, lóng ngóng gảy bàn toán. Dẫu còn vụng về, song cũng có tiến bộ. Thẩm Khước tắm rửa xong, thay bộ vải thô ta mới mua, ngồi đối diện, lặng lẽ nhìn ta. Bộ áo kia mặc trên người chàng, thật sự chẳng hợp chút nào. Thế nhưng lại khiến chàng bớt đi vài phần xa cách, thêm được đôi chút khói lửa nhân gian. “Chừng ấy ngân lượng…” Chàng chợt mở miệng, giọng mang theo tia trào phúng. “Ngươi định nuôi ta sao?” Ta không ngẩng đầu, tay vẫn không ngừng tính toán. “Đủ rồi.” “Đủ thế nào?” Cuối cùng cũng tính xong, ta ngẩng đầu, nhìn thẳng vào mắt chàng, từng chữ từng lời chậm rãi mà kiên định: “Tiết kiệm một chút, đến một nơi… không ai quen biết chúng ta. Ta… biết nấu nhiều món ngon. Chúng ta mở… một quán nhỏ. Tiền ta kiếm được… đều… đều cho ngài.” Chàng ngẩn người. Đêm đó, ta mệt đến mức đầu vừa chạm gối đã chìm vào giấc ngủ. Thẩm Khước là người có lễ, nhường giường cho ta, còn bản thân nằm trên nền đất. Nửa mê nửa tỉnh, ta cảm thấy có người khẽ đắp lại chăn cho mình. Động tác nhẹ nhàng mà vụng về, mang theo một tia do dự khó giấu. Ta mơ màng hé mắt một khe nhỏ, thấy Thẩm Khước đang ngồi nơi mép giường. Ánh trăng ngoài cửa sổ rọi nghiêng vào, in dáng chàng lặng lẽ nhìn ta. Trên gương mặt kia chẳng còn vẻ bực dọc ban ngày, chỉ còn lại thứ cảm xúc phức tạp mà ta chẳng sao hiểu nổi. Tựa hồ là lạc lõng, lại tựa như… trân trọng một thứ suýt nữa đã đánh mất. Ta quá mỏi mệt, chưa kịp suy nghĩ nhiều, đã lại thiếp đi. Chỉ là lần này… Trong giấc mơ không còn cảnh bị hà hiếp nơi phủ viên ngoại, không còn canh thuốc đắng chát nơi phủ hoàng tử, cũng chẳng còn ánh lửa đỏ rực đầy trời. Chỉ còn một quán ăn nhỏ bốc khói nghi ngút. Và một thiếu niên miệng độc lòng mềm, ngồi lười biếng trên ghế gỗ trước cửa, hong nắng đợi ta dọn hàng trở về. Dáng dấp ấy, rõ ràng chính là Thẩm Khước. Hôm sau, Ta đem toàn bộ vàng ngọc trong bọc đi cầm lấy bạc. Đổi được bao nhiêu, đành phải tính toán chi li. Ta tiêu hai đồng mua một cái bánh ngô khô cứng như đá, bẻ làm hai, đưa phần lớn cho chàng. Chàng thoạt đầu không nhận. Ta biết, e là trong lòng thấy lúng túng. Dù gì khi xưa ở phủ Cố, dẫu bị hạ nhân khinh khi, chàng vẫn có tiền, bữa ăn cũng chẳng bao giờ đơn sơ. Chứ đâu như hiện tại, chẳng còn lựa chọn. “Ta không đói.” Chàng lạnh nhạt quay mặt đi. Ta cũng chẳng khuyên, chỉ lặng lẽ ăn phần của mình. Chẳng bao lâu, tiếng bụng chàng “ọc” lên một tiếng, vang còn hơn cả gió ngoài cửa. Ta không nhịn được, bật cười. “Điện hạ không ăn khói lửa nhân gian, cũng phải ăn ngũ cốc nhân gian. Đây là bữa ta dùng tiền nuôi ngài đấy. Ngài không ăn… thì ta lỗ vốn mất.” Mặt chàng khi thì xanh khi thì trắng, cuối cùng vẫn chịu thua bụng đói, giật lấy nửa cái bánh trong tay ta. Cắn mạnh một miếng, như thể đó là… tay ta vậy. Ta nhìn chàng ngấu nghiến ăn bánh, bao nhiêu oán khí trong lòng cũng tiêu tan theo gió. Chúng ta tiếp tục lên đường. Gian khổ trùng trùng. Nhưng cũng là lần đầu tiên được chứng kiến cảnh dân sinh lầm than. Ta giặt áo bên bờ suối, giũ sạch bộ vải thô của chàng, phơi lên cành cây cho ráo. Chàng là hoàng tử được nuông chiều từ nhỏ, nào từng đụng đến mấy chuyện vặt vãnh này. Lúc đầu ngay cả nhóm lửa cũng không biết, bị khói hun đến mặt mũi đen thui. Đúng là phong thủy luân chuyển. Trước kia chàng mắng ta ngu dốt, nay đến lượt ta mắng chàng tay chân vụng về. Mắng thì mắng, nhưng vẫn nhét củ khoai nướng nóng hôi hổi vào tay chàng. Từ ban đầu còn kháng cự, đến trầm mặc, nay chàng đã dần quen với cuộc sống này. Chàng sẽ lặng lẽ ngồi bên, nhìn ta đếm bạc. Khi ta bị tiểu thương lừa mất mấy đồng cắc, chàng chỉ lạnh mặt nói vài câu, người ta đã vội vàng trả lại. Chúng ta giống như hai gốc cây bị bão dông quật đổ, nhưng rễ vẫn quấn chặt dưới lòng đất. Gió mưa thế nào cũng không thể tách rời. 12. Tại một trấn nhỏ gọi là Thanh Thủy, chúng ta tạm thời an thân. Nơi này cách kinh thành rất xa. Ta dùng chút bạc cuối cùng, thuê được một góc nhỏ ngoài chợ làm quầy hàng. Còn nhờ người làm một tấm biển gỗ, phía trên là ba chữ ta tự tay viết từng nét: “Tang Ký Thực Tứ.” Chuyên bán những món ăn sở trường của ta. Đường cao và mì sợi. Đường cao là tay nghề do bà dạy, ngọt mà không ngấy, mềm dẻo ngon miệng. Còn mì sợi, lại là thứ ta bị cha mẹ bắt học để chuẩn bị chăm sóc đệ đệ khi xưa. Ta đưa cho Thẩm Khước một mảnh vải trắng đã giặt đến phai màu. “Buộc vào đi.” Chàng không nhúc nhích, ánh mắt lạnh như thể muốn sát nhân. “Ngài là tiểu nhị, ta là chưởng quầy.” Ta nhìn thẳng chàng, từng chữ từng lời rõ ràng. “Có khách đến, ngài chịu trách nhiệm rót trà mời nước, tiếp đón khách nhân.” “Ngươi dám sai khiến ta?” Thanh âm chàng đè nén rất thấp, mang theo uy nghi bẩm sinh của một vị hoàng tử. Ta gật đầu, chỉ vào nồi nước sôi bốc khói nghi ngút trên bếp và phần thịt bằm thơm lừng. “Có làm mới có ăn.” Chàng nhìn ta chằm chằm, ngực phập phồng. Sau cùng, vẫn là cúi đầu nhặt lấy mảnh vải, tùy tiện buộc ngang thắt lưng. Ngày khai trương, ta ninh một nồi lớn thịt bằm, mùi hương lan tỏa nửa dãy phố. Khách nhân đầu tiên là một người buôn gánh gồng, vừa đi vừa rao, gọi một bát mì. Thẩm Khước bưng bát đến, “rầm” một tiếng đặt xuống bàn. Canh bắn tung tóe, dính đầy người khách. Người buôn giận dữ, định lật bàn ngay tại chỗ. Thẩm Khước lạnh lùng nhìn hắn, ánh mắt như đang nhìn một xác chết. Chớ có gây chuyện a! Ta vội vàng bước lên xin lỗi rối rít, lại nấu thêm một bát mới, lúc này mới dẹp yên sóng gió. Đến tối, ta chỉ chia cho Thẩm Khước nửa cái màn thầu. Chàng cầm lấy nửa cái bánh lạnh tanh, chẳng nói lời nào, cứ thế ăn hết. Thuở đầu, việc buôn bán chẳng mấy khấm khá. Tuy cổ họng ta đã lành, nhưng không giỏi mồm miệng rao hàng. Thẩm Khước chỉ ngồi phía sau ta trên chiếc ghế gỗ thấp. Ban đầu chỉ là lạnh nhạt quan sát, sau có lẽ không chịu nổi sự vụng về của ta, bèn bắt đầu hiến kế. “Biển hiệu phải viết to, dùng giấy đỏ, mới nổi bật.” “Hương vị có thể chia nhiều loại, thêm chút hoa quế hoặc đậu đỏ, giá cũng nhỉnh hơn.” “Mỗi ngày bán giới hạn, hết là nghỉ, gọi là ‘kỳ vật khả cư’.” Cuối cùng, chàng nói khẽ: “Ngươi đem mì phối cùng đường cao, cũng coi như có sáng ý. Sẽ có người mua về cho hài tử ăn.” “Ngài cũng đâu có ngốc.” Ta cứ coi như chàng đang khen ta. Nghe theo lời chàng, ta làm theo, quả nhiên việc buôn bán tốt lên thấy rõ. Ta lo nhào bột, chiên bánh, nấu mì phía trước. Chàng ở phía sau phụ ta ghi chép sổ sách. Chữ chàng viết đẹp, tính toán lại nhanh nhạy, chuẩn xác hơn trăm lần so với ta đánh bàn tính như gà mổ thóc. Nắng chiều rơi xuống, chúng ta cùng nhau dọn hàng, đếm từng đồng tiền. Cái cảm giác vui mừng vững vàng đó, là thứ ta chưa từng có trong đời.