11. Triệu Tông phun cả vụn bánh ra ngoài: “Nghi ngờ ai cơ?” Vẻ mặt chàng như thể vừa thấy quỷ: “Nghi ngờ nàng ư? Ngọc nhi, nàng nói cái gì vậy! Sao có thể nghĩ như thế? Nàng lại nghi ngờ ta à?” Hả? Là thiếp nghi ngờ chàng sao? Thấy chàng có vẻ cuống lên, ta vội kéo tay áo chàng trấn an: “Đừng giận, đừng giận. Chàng uống chén trà trước đã, rồi nghe thiếp nói.” Thế là ta đem toàn bộ chuyện trong mấy quyển thoại bản kể cho chàng nghe một lượt. Lông mày Triệu Tông nhíu lại, càng lúc càng chặt. Cuối cùng, ta len lén hỏi: “Vậy… chàng có thế không?” Có sợ phụ thân ta vì muốn con mình làm Hoàng đế mà uy hiếp ngai vàng, rồi nhân cơ ra tay diệt trừ phủ Tướng quân hay không? Triệu Tông bất đắc dĩ cười khẽ: “Nàng đó… ta thật không biết nên nói gì với nàng nữa.” “Con của chúng ta, vốn dĩ chính là Hoàng đế tương lai. Ai bảo nàng là nữ nhân duy nhất của ta chứ?” Ánh mắt Triệu Tông chan chứa dịu dàng, ta nhìn vào mà không hay bản thân đã lún sâu đến nhường nào. Sau đó… chàng đem hết toàn bộ thoại bản của ta vứt đi. Ta tức giận phản kháng: “Không có thoại bản, chi bằng thiếp chết còn hơn!” Thế là đêm ấy, chàng lập tức cho người đi tìm, mang về cả một rương đầy. Nhưng toàn là mấy cuốn như 《Đế hậu ân ái ký》, 《Bá đạo hoàng đế hung hăng yêu》... Ta ôm sách, đọc đến mê mẩn. Mười tháng mang thai, cuối cùng ta hạ sinh một tiểu hoàng tử. Ngay trong đêm con cất tiếng khóc chào đời, Triệu Tông đã hạ chỉ sắc phong con làm Thái tử. Chàng ngồi bên giường ta, đôi mắt đỏ hoe như vừa khóc xong. Ta vừa mở mắt đã thấy chàng như vậy, liền đưa tay xoa nhẹ chân mày chàng: “Đừng khóc, thiếp không đau đâu.” Thật ra… đau đến chết đi sống lại. Nhưng thấy chàng khổ sở, tim ta còn đau hơn thế. Có con rồi, thú vui của ta lại càng thêm phong phú. Ngoài chuyện tự mình đọc thoại bản, ta còn thường đọc to lên cho hài tử nghe. Ta tin rằng trẻ con phải được hun đúc từ thuở còn thơ! Tựa như ta thuở nhỏ, được phụ thân dạy luyện thương, nên nay mới có thân thủ bất phàm. Mà nay ta muốn con mình sau này thành bậc văn nhân, thì phải sớm quen tai nghe văn chương gấm vóc. Tiểu bảo bảo nằm trong lòng Xuân Chi, cười khúc khích không ngớt. Ngay lúc ấy, cung nhân bên cạnh Triệu Tông đột ngột chạy đến xin bái kiến, còn chưa mở lời đã quỳ rạp xuống đất, dập đầu nói: “Hoàng hậu nương nương, xin người mau tới xem! Hoàng thượng… Hoàng thượng định uống thuốc!” Thuốc? Triệu Tông bệnh rồi sao? Ta lập tức ba chân bốn cẳng chạy đến. Vừa đến trước điện đã nghe thấy tiếng ồn ào bên trong: Các thái y tranh nhau can ngăn: “Hoàng thượng, ngàn vạn lần không được!” “Thần khẩn cầu Hoàng thượng tam tư, long thể sao có thể tùy tiện tổn thương!” Giữa tiếng ồn ào, giọng nói của Triệu Tông vang lên đầy giận dữ: “Trẫm chỉ hỏi các ngươi: có hay không loại thuốc có thể khiến trẫm đoạn tuyệt con nối dõi!” Ta đẩy cửa bước vào, giận dữ quát lên: “Chàng không được uống!” Triệu Tông còn đang nổi nóng, thấy ta bất ngờ xuất hiện thì sững lại, sau đó lúng túng luống cuống: “Nàng… sao nàng lại tới đây?” Thái y như thấy được cứu tinh, đồng loạt dập đầu thỉnh cầu: “Hoàng hậu nương nương, xin người khuyên ngăn Hoàng thượng!” Triệu Tông khoát tay đuổi hết bọn họ lui ra ngoài, rồi nắm lấy tay ta, cười gượng: “Nàng đừng vội giận, dù sao chúng ta cũng đã có Vinh nhi rồi.” Ta trừng mắt: “Không được! Thiếp đã nghe rõ, thứ thuốc đó sẽ tổn hại thân thể chàng. Chàng không được uống!” Triệu Tông thoáng ngẩn người: “Nàng… lo cho ta sao?” Vớ vẩn! Tất nhiên là ta lo. Hắn vội vã đáp lời: “Được được, ta không uống. Nàng đường xa đến đây, có khát không? Để ta pha trà cho nàng.” Hắn ôm ta vào lòng, không ngừng dỗ dành, thề sống thề chết rằng sẽ không làm điều gì dại dột. Thế nhưng… hôm sau hắn lại uống sạch sẽ. Lúc ta đến nơi, thuốc đã vào bụng, không cách nào ép ra được nữa. Ta còn chưa kịp nổi giận, hắn đã kéo tay áo ta, nhẹ nhàng nũng nịu: “Được rồi mà, nàng đừng giận nữa.” “Là lỗi của ta, là ta vô dụng.” Ta tức mà không hiểu nổi: “Chàng thì có gì mà vô dụng? Sao nhất định phải uống loại thuốc đó?” Triệu Tông khẽ vuốt ve gò má ta, thanh âm như gió nhẹ thoảng qua tai: “Nàng không hiểu đâu… Ngày nàng sinh nở, ta đau lòng đến chết đi sống lại.” “Ta không muốn trải qua nỗi đau ấy lần nữa. Nàng cứ xem như thương xót ta, đừng giận nữa, được không… nương tử của ta.”   12. Chuyện đã đến nước này, ta giận cũng vô ích. Huống chi loại thuốc đó quả thực có di chứng. Triệu Tông thân thể suy nhược, nằm liệt giường không dậy nổi. Ta nóng ruột đến rơi nước mắt, tự tay đút thuốc cho chàng: “Chàng phải mau chóng khỏe lại… nếu không thì thiếp và Vinh nhi biết làm sao bây giờ?” Chàng dịu dàng vỗ về: “Đừng lo, nàng đừng lo...” Đợi đến khi tinh thần khôi phục phần nào, chàng liền sai người đưa tấu chương đến tận giường, lại nắm lấy tay ta, cùng nhau viết từng nét phê duyệt bằng chu sa. Ta vốn không dám viết, nhưng chàng lại cố chấp đến cùng: “Ngọc nhi, nàng là hoàng hậu, thiên hạ này là của hai ta.” “Nàng không biết cũng không sao, ta sẽ dạy.” Chàng dạy ta cách dùng người, cách cân bằng thế lực. Dần dần, chàng buông tay ra, chỉ ngồi một bên ngắm ta viết xuống từng hàng từng chữ. Đến khi ta viết xong, chàng mỉm cười: “Nàng làm rất tốt.” Ta lập tức ném bút, nhào tới ôm lấy chàng: “Không được! Chàng phải mau khỏe lại, viết lâu tay đau muốn chết rồi. Mau, xoa cho thiếp đi!” Triệu Tông vừa cười vừa xoa bóp tay cho ta, từng động tác đều nhẹ nhàng như sợ ta đau. Ta thì mỗi ngày đều nơm nớp lo sợ, may thay… cuối cùng Triệu Tông cũng khỏe lại. Chớp mắt một cái, Vinh nhi đã hơn mười tuổi, còn ta và Triệu Tông cũng dần bước vào tuổi xế chiều… Ta rút một sợi tóc bạc trên đỉnh đầu chàng, giơ lên trước mặt: “Phu quân, chàng có tóc bạc rồi.” Chàng than nhẹ một tiếng: “Vậy phải làm sao đây? Nàng sẽ chê ta sao?” Ta ôm lấy chàng, lắc đầu thật mạnh: “Không đâu, ta thích chàng nhất.” Từ năm đó, khi chàng cưỡi ngựa săn bắn nơi thảo nguyên, ta đã trộm nhìn từ xa rồi thích mất rồi. Chớp mắt, vậy mà đã nhiều năm trôi qua. Năm tháng, đúng là vô tình. Mấy năm sau, chàng lâm trọng bệnh, sức khỏe suy kiệt, nằm liệt giường không dậy nổi. Chàng cho lui hết cung nhân, chỉ để một mình ta ở lại. Từ vài tháng trước, chàng đã âm thầm chuẩn bị hậu sự, cũng thu xếp xong xuôi mọi đường đi nước bước cho Vinh nhi. Ta không ngốc, ta hiểu… chàng sắp đi rồi. Ta mặc một bộ xiêm y đỏ, ngồi bên giường chàng, chăm chú nhìn khuôn mặt ấy, nước mắt đọng nơi khóe mắt, nhưng ta không để rơi. Chàng thở dài: “Ngọc nhi, muốn khóc thì cứ khóc đi.” Ta lắc đầu: “Không, khóc sẽ xấu. Ta không muốn chàng thấy ta xấu.” “Chàng còn nhớ không? Đêm thành thân năm đó, ta khóc đến nỗi son phấn đều trôi, mặt mũi lem nhem, chẳng còn ra sao.” Chàng thoáng sững lại, đôi mắt như phủ sương, ánh nhìn lạc về nơi xa xăm. Giống như đang xuyên qua bao năm tháng, nhìn về đêm ấy – ánh nến lay động, thiếu nữ trong bộ hồng y, ngồi dưới ánh sáng lập lòe, đôi mắt ngấn lệ, dịu dàng gọi: “Phu quân…” Chàng khẽ cong khóe môi: “Nhớ chứ, đẹp lắm. Ai dám nói nàng không đẹp… để ta đánh cho một trận.” Chàng còn giơ tay áo lên, làm bộ muốn đánh người, trông vừa đáng yêu lại vừa chua xót. Ta bật cười. Chàng nắm lấy tay ta, ánh mắt đầy lưu luyến: “Ngọc nhi, ta phải đi trước một bước rồi, nàng… đừng trách ta.” Chàng khẽ chỉ về chiếc tủ bên cạnh, ra hiệu ta mở ra. Bên trong là một đạo thánh chỉ. Ta giật mình: “Chàng… đây là gì?” Chàng khẽ lắc đầu: “Đừng từ chối. Vinh nhi là con của chúng ta, nhưng ta cũng muốn vì nàng mà giữ lại một đường lui.” “Nếu một ngày nào đó… thái tử không xứng, thì nàng – hoàng hậu – có thể thay thế.” “Ngọc nhi, đừng khóc… Hát cho ta một khúc nữa đi, để ta có thể an giấc…” Đó là câu nói cuối cùng… chàng để lại cho ta. Ta siết chặt chiếu chỉ trong tay, gục đầu xuống ngực chàng, cuối cùng cũng không kìm được nữa mà òa khóc nức nở. Tiếng khóc ấy, là tiếng của trái tim rạn vỡ. Không một ai biết, bên trong tẩm điện ấy đã xảy ra chuyện gì. Không ai hay, từ ngày hôm đó trở đi, ta – một hoàng hậu cao quý – lại trở nên trầm mặc lạ thường. Chỉ có ta biết… Là bởi vì, tất cả những điều ta muốn nói trong một đời này, ta đã nói hết cùng chàng – trong đêm ấy.   13. Ta đem chiếu thư cất kỹ. Hoàng nhi – vâng, chính là thiếu niên bé nhỏ ngày nào – giờ đã kế vị đại thống, thi hành chính sự nhân hòa, độ lượng, phảng phất phong thái thuở sinh tiền của phụ hoàng. Dân chúng khen ngợi không dứt. Thấy ta sắc mặt tiều tụy, u uất chẳng vui, nó cho mời Xuân Chi – à không, là xuân muội nhà ta – vào cung hầu hạ. Xuân muội mấy năm trước từng cứu giúp một thư sinh nghèo túng ngoài phố, chăm sóc hắn chu đáo. Người ấy sau này thi đỗ, một lòng cầu hôn muội. Giờ đã là phu nhân của Tả thị lang, con cái đề huề, đứa lớn nhất cũng đã bảy tám tuổi. Vậy mà khi trông thấy ta, nàng òa lên khóc như một đứa trẻ: “Tiểu thư, người... sao lại gầy thế này...” Xuân muội ở bên ta vài tháng. Một đêm kia, ta mộng thấy phụ thân. Tỉnh giấc giữa đêm khuya, tim đập thình thịch không thôi. Xuân muội ngủ ngay bên giường, vẫn như thuở nhỏ. Nàng vội đỡ ta dậy, lo lắng hỏi: “Tiểu thư, gặp ác mộng sao?” Ta lắc đầu, khẽ mỉm cười: “Không... là mộng đẹp.” Cha mất mấy năm trước. Trước lúc lâm chung, người chỉ dặn ta một điều: “Nhớ chôn cha cạnh mẹ con nhé. Cha nợ bà ấy cả một đời... Giờ cha phải đi tìm bà ấy rồi. Đừng trách cha, được không, Ngọc nhi?” Ta không trách cha. Bởi trong giấc mộng đêm qua, cha cùng mẫu thân đã đến đón ta. Và... còn có chàng. Trong mơ, chàng vận trường y kỵ mã, dáng dấp cao ngất như ngọc. Giữa muôn người ồn ào rộn ràng, ta chỉ nhìn thấy mỗi chàng. Không giống như thuở bé chàng ngó lơ ta, lần này, chàng vươn tay về phía ta, nhoẻn miệng cười nhẹ: “Nàng về nhà cùng ta nhé, nương tử.” Ta gật đầu. “Được. Chúng ta... cùng về nhà.”