8. Tối đến, sau khi hai tỷ muội chúng ta đã yên giấc, cha mới kể lại chuyện năm xưa. Năm ấy, cha may mắn thoát được vòng vây truy binh, không còn đường lui đành cắn răng nhảy xuống vách núi. Vận khí chưa tuyệt, lại được vị thượng quan từng quen biết bắt gặp. Người kia không chỉ cứu mạng mà còn khuyên cha trở lại quân doanh. Cha nghĩ, nếu mượn được thế lực ấy, may ra có thể lần theo tung tích của a nương và ta, liền gật đầu nhận lời. Nào ngờ liên tiếp hai năm trời, đều không gặp được chúng ta. Hết thảy đều bỏ lỡ. Cho tới gần đây, nghe nói chiến sự bên này đã lắng, điều đầu tiên cha nghĩ đến chính là: a nương có lẽ đã quay trở lại quê cũ. Cha liền ngày đêm gấp rút lên đường, ngựa mỏi ngựa kiệt, thay liền mấy con mới tới được nơi. Kể đến đây, cha bất giác đập mạnh lên bàn, vành mắt hoe đỏ, nghẹn giọng nói: “Nếu ta không về kịp… chỉ e chết rồi cũng không tha thứ nổi cho bản thân.” Ánh mắt cha nhìn về phía a nương, chan chứa lo sợ muộn màng. A nương nhẹ tay lau đi giọt lệ trên má cha, còn cha, như đứa trẻ bị dọa sợ, rúc vào lòng nàng mà run nhẹ. An An thấy vậy, cũng a dua bắt chước, lách mình chen vào. Ta vội lấy tay che miệng bật cười thành tiếng. A nương hơi đỏ mặt, lúng túng muốn đẩy ra, song lão Lý lại ngang nhiên lau lệ, từ trong người lấy ra mấy đóa trâm hoa tinh xảo: “Ta vừa thấy đã biết, thứ này hợp với nàng.” Trâm lớn là của a nương, cái nhỏ hơn thì đưa cho ta. A nương cầm lấy, ngắm mãi không buông tay, ta cũng lạ lẫm thích thú. Những năm gần đây, trấn nhỏ đã hiếm ai bán mấy món tinh xảo thế này. Đúng lúc ấy, a nương khẽ hỏi về tin tức của Triệu Vô Kha. Lão Lý sững người một khắc, rồi bất chợt bật cười. Về sau ta mới hay, thì ra lão đã sớm muốn nói, chỉ là càng mong a nương chủ động hỏi đến. Cha ruột của Triệu Vô Kha không phải hạng thường nhân, là người đứng đầu trong đám phú hộ, chuyên cung cấp ngân lượng cho Vũ vương. Năm ấy loạn lạc bùng lên, gia tộc chịu ảnh hưởng ít nhất chính là nhà họ Triệu. Sau khi binh đao yên ổn, kẻ đầu tiên khôi phục thế lực vẫn là nhà họ Triệu. Từ đó về sau, Triệu gia được xưng là đại vương trong vùng, ai ai cũng phải dè chừng. Bởi vậy, việc Triệu Vô Kha tác oai tác quái nơi trấn nhỏ mà không một ai dám can thiệp, cũng là có nguyên do. Chỉ là, Vũ vương đã quy thuận dưới trướng Cung vương. Còn lão Lý, lại là tâm phúc bên mình Cung vương. Kẻ như Triệu Vô Kha, dẫu có là chó săn trung thành đến đâu, Cung vương há lại vì hắn mà trở mặt với thân tín? Về phần tứ muội của a nương, lão Lý cũng từng mất nhiều công sức dò hỏi mới rõ đầu đuôi. Thì ra sau khi tới tuổi cập kê, nàng bị phụ mẫu bán đi. Trùng hợp khi ấy Triệu Vô Kha đang lùng tìm tung tích của a nương, vừa gặp tứ muội liền lập tức đem người về phủ. Năm xưa a nương ẩn cư, rất ít khi ra ngoài, dù khoảng cách giữa hai nơi chẳng qua chỉ cách mấy dặm, người của Triệu Vô Kha cũng không lần ra dấu vết. Đợi đến sau khi chiến sự lắng xuống, không biết y từ đâu nghe được tin tức của a nương, liền lập tức rời khỏi hạ lý thôn mà tới đây. Sau nhiều lần lùng kiếm không kết quả, hắn dần mất kiên nhẫn, toan vứt bỏ tứ muội. Nào ngờ, vừa lúc ấy lại bắt gặp a nương đang đi chợ mua sắm. “Hắn vẫn là thích nàng.” Lúc thốt ra lời này, lão Lý thoáng ngập ngừng, thần sắc mang theo do dự, ánh mắt lặng lẽ hướng về phía a nương. “Sao có thể như thế được? Dẫu cho là vậy, ta cũng không thích hạng người như hắn… Ta… ta chỉ thích một mình chàng.” A nương đỏ mặt, nét thẹn thùng nhuốm ửng hồng cả hai má. Lão Lý bật cười, ngập ngừng hồi lâu, cuối cùng vẫn kể lại chuyện năm xưa. Cái gọi là trăm lượng bạc cược thua của Triệu Vô Kha, thực chất chỉ là cái cớ để tiếp cận a nương. Hắn thường ngày lui tới tửu lâu uống rượu, vô số lần đứng nơi lầu cao ngắm nhìn a nương đang đưa cơm dưới sân. Ngắm mãi thành quen, rồi dần dần động lòng, mới sai người lén dò hỏi về thân thế của nàng. Về sau, chuyện bị đám bạn bè du thủ du thực của hắn nghe được, sợ bị chê cười mất thể diện, y bèn dựng chuyện bịa ra ván cược trăm lượng. Ngày a nương lên lầu, ban đầu Triệu Vô Kha chỉ định thăm dò lai lịch, sau đó sẽ tiễn người xuống. Nào ngờ đám bạn kia lại lén bỏ thuốc vào rượu hắn. Lúc phát giác có điều bất ổn thì đã quá muộn. Trước ánh mắt trong sáng, dáng hình dịu dàng của a nương, lý trí trong hắn hoàn toàn sụp đổ. Sau khi sự tình xảy ra, hắn sợ. Sợ a nương vì vậy mà căm ghét mình, nên vội vàng sai người đưa nàng trở về. Nào ngờ bọn hạ nhân lại hiểu sai ý. Không chỉ nuốt trọn chín mươi lượng bạc, mà còn ngang nhiên vứt bỏ a nương giữa phố phường tấp nập người qua kẻ lại. Sau khi biết được chân tướng, a nương chẳng hề đau khổ như tưởng tượng, cũng chẳng phẫn uất hay oán than điều gì. Nàng không nói một lời, chỉ lặng lẽ một mình trở về phòng. An An vùng vằng muốn chạy theo, nhưng bị lão Lý nhẹ nhàng ngăn lại. Chàng khom người dỗ dành, giọng như gió thoảng: “An An ngoan, nương con cần nghỉ một giấc thật sâu.”   9. A nương sau một giấc ngủ sâu, ngày tháng dường như lại trở về như thuở ban đầu. Lão Lý không nhận phủ đệ to lớn mà Quý vương ban thưởng, chỉ lẳng lặng cùng a nương sống trong tiểu viện nhỏ này, thanh đạm mà an yên. Chuyện cũ như cơn mộng, đều đã qua. Về sau, Triệu Vô Kha từng đến tìm ta, mang theo không ít y phục tinh xảo, các món ngon hiếm thấy cùng bạc trắng lấp lánh. Hắn nói, chỉ muốn gặp a nương một lần, nói rõ đôi điều. Ta không đáp ứng, cũng chẳng thu lấy thứ gì. Hắn cũng không tỏ vẻ giận dỗi, chỉ thản nhiên nhét tất cả vào tay ta, đoạn rời đi. Trước khi đi, hắn bảo, lần sau sẽ lại đến. Ta đem mọi chuyện kể cho phụ mẫu nghe. Lão Lý nghe xong khựng người, khẽ đưa mắt nhìn sang a nương. A nương chỉ dịu dàng xoa đầu ta, thanh âm nhẹ như gió xuân: “Đồ cứ cất lấy. Lần sau hắn đến, con chỉ cần báo cho nương một tiếng là được.” Ta dạ khẽ, đưa mắt nhìn phụ thân ánh mắt rầu rĩ, mà a nương thì đã xoay người bước vào trong viện. Ta kéo phụ thân ngồi dưới tán đại thụ, ôm lấy vò rượu của người, rồi moi ra túi kẹo tùng tử mà ta cất kỹ. “Cha đừng lo, a nương là thương cha nhất đó!” Lão Lý khẽ cười, không đáp, chỉ tự rót rượu cho mình. Chẳng hề đụng đến viên kẹo nào, chỉ lặng lẽ uống từng chén một. Còn ta thì chẳng uống một giọt rượu, nhưng lại ăn sạch cả một túi tùng tử. Tối hôm đó, lão Lý say đến bất tỉnh nhân sự. Còn ta thì ê buốt cả hàm, nhai kẹo đến mức sâu răng. A nương biết chuyện, dở khóc dở cười, véo cho hai cha con mỗi người một cái vào trán. Ba ngày sau, Triệu Vô Kha lại đến. A nương ra ngoài cổng nói chuyện với hắn, ta thì lôi phụ thân đến trốn sau cửa, lén lút nghe lỏm. Lúc đầu lão Lý còn lúng túng, nhưng sau cũng thuận theo ta bày trò. Ngoài sân, Triệu Vô Kha nói rằng chuyện hôm trước hắn chỉ muốn hù doạ, chưa từng có ý hại A An. A nương đáp: nàng đã biết. Triệu Vô Kha hỏi, nếu được làm lại từ đầu thì sao? A nương nói, không thể nào. Giữa bọn họ, chưa từng có khả năng. Triệu Vô Kha rời đi. Khi đi, loạng choạng như người mất hồn, vấp ngã mấy lần liền. A nương nghe rõ, nhưng không hề ngoái đầu. Ta dõi theo bóng lưng ấy, chỉ thấy nực cười. Một kẻ đã tổn thương a nương, suýt nữa còn hại cả A An, nay lại bày ra dáng vẻ thảm thương này… để cho ai xem chứ? Lão Lý cuối cùng cũng yên lòng. Khi a nương vừa quay vào nhà, người liền dang tay ôm chặt lấy nàng. A nương chẳng lấy làm kinh ngạc. Ta hỏi nàng vì sao biết được ta và phụ thân trốn ở sau cửa. Nàng chỉ khẽ cười, nói: “Người to xác như thế, cánh cửa sao mà che được.” Ta và lão Lý nghe xong đều bật cười. Về sau, Triệu Vô Kha vẫn tiếp tục lui tới. Mỗi lần tới, hắn đều mang theo những vật kỳ lạ ta chưa từng thấy qua, có thứ cho ta, cũng có thứ cho a nương. Dù a nương chẳng bao giờ nhận lấy, hắn vẫn một mực đưa đến. Hắn từng nhiều lần tìm cách dụ ta gọi hắn một tiếng “cha”, nhưng mặc cho hắn có dỗ ngon dỗ ngọt thế nào, ta chưa từng mở miệng. Bởi vì, ta đã bắt đầu đọc sách. Trong sách viết, người làm sai điều không thể dung thứ, không nên tha thứ thay người khác. Mà ta, không muốn thay a nương thứ lỗi cho hắn. Cha của ta, chỉ có một người, ấy chính là lão Lý. Khi a nương hay chuyện, nàng lại gặp Triệu Vô Kha thêm một lần nữa. Không rõ đã nói những gì, nhưng từ đó về sau, Triệu Vô Kha không còn xuất hiện nữa. Cho đến nhiều năm sau, ta bất ngờ nhận được một phong thư tuyệt mệnh, kèm theo phân nửa gia sản do hắn để lại, lúc ấy ta mới nhớ đến hắn một lần nữa. Khi ấy, người thân bên ngoại của a nương đã chẳng còn ai. Lão Lý vẫn là dáng vẻ thuở đầu, ngoài những lúc bận việc, thời gian còn lại đều quấn quýt bên a nương. Ngay đến ánh mắt cũng chẳng rời nhau nửa khắc. Thực tình là vô cùng ân ái. Có người nhìn không thuận mắt, buông lời gièm pha rằng a nương không sinh được con trai. Lão Lý ngoài mặt chẳng nói gì, nhưng sau lưng lại đi gặp từng người, kể chuyện bản thân thương a nương ra sao, và rằng có hay không có con trai, với người ấy đều chẳng quan trọng. Lâu dần thành quen, người trong thôn đều biết, lão Lý sủng ái thê tử đến mức coi nàng là mệnh. Dù mang danh tuyệt hậu, y cũng chẳng lấy làm sợ hãi. A nương kỳ thực đều biết cả. Mỗi lần nghe người ngoài bàn tán, nàng chỉ đứng ở nơi không xa, mỉm cười lặng lẽ. Giữa hai người hiếm khi nảy sinh tranh cãi, thậm chí chưa từng mặt nặng mày nhẹ, ngày thường đối đãi chan hòa, tựa như thân nhân lâu năm. Có lần a nương hỏi lão Lý vì cớ gì lại thích nàng. Lão Lý nói, chuyện nhân duyên vốn khó mà định trước, cảm tình cũng vậy. Chỉ là khi ấy, nàng nhìn y một cái, trong ánh mắt kia chứa đựng điều gì đó khiến lòng y phút chốc chẳng còn yên ổn. Ánh mắt ấy, có phản kháng số phận, có khát vọng được sống, có rất nhiều điều… đều là những điều mà lão Lý tha thiết mong cầu. Y nói, một người lính mất đi cánh tay, chẳng khác nào mất đi ý nghĩa tồn tại nơi chiến trường. Là một binh sĩ, y không mong có chiến tranh, nhưng cũng chẳng cam tâm bản thân chẳng thể ra trận. Nếu khi ấy không gặp được a nương, không ngoài dự liệu, y sẽ lặng lẽ chờ đến ngày nhắm mắt. Nhưng y đã gặp nàng, không chỉ là gặp, nàng còn mang thai, hài tử ấy khiến lão Lý lần nữa có lý do để kỳ vọng vào sinh mệnh. Năm tháng thoi đưa, hai người dần già đi, mà ta thì trưởng thành, văn võ song toàn. Sau này, ta trở thành nữ tướng đầu tiên dưới trướng của Cung vương. Đến ngày a nương qua đời, ta gấp rút hồi phủ. Lão Lý ngồi một mình trong phòng hai người từng ở, không thốt ra một lời. Mái đầu điểm sương, gương mặt nhuốm màu sương gió, mà đôi mắt lại trĩu nặng nỗi đau khôn cùng. Cha châm điếu thuốc khô đầu tiên trong suốt bao năm qua, bàn tay run đến chẳng thành hình. Ta ôm lấy chà, khẽ nói: “Cha à, nương mong người sống thật tốt.” Lão Lý gật đầu. Về sau, tuy thần trí không còn minh mẫn, nhưng thân thể vẫn còn khỏe mạnh. Ta ngây thơ cho là cha sẽ sống lâu thêm vài năm nữa. Nào ngờ sang năm sau, cha liền ra đi. Năm đó, đúng lúc hài nhi của An An vừa chào đời. Tựa hồ là đã hẹn trước, lão Lý không chút do dự, theo chân a nương mà đi. Cha để lại di ngôn, nói muốn được chôn cùng nàng, như vậy sẽ tiện bề đi tìm. Bảo rằng, đã để nàng đợi lâu như thế, nàng nhất định sẽ sợ hãi, chẳng may trên đường xuống Hoàng Tuyền bị oan hồn nào bắt nạt thì sao? Ngay đến hơi thở cuối cùng, lão Lý vẫn luôn nhắc đến nàng. Ta theo nguyện vọng, cho người mai táng cả hai cạnh nhau. Hôm đưa tang, gió nhẹ chợt nổi, có hai cánh bướm lượn quanh quan tài, uyển chuyển như múa. Một con, dường như chỉ còn một bên cánh. Ta bỗng khựng lại, lòng dâng một cảm giác chẳng thể gọi tên, liền vội vã trở về nhà. Trong thư phòng năm xưa – nơi ta từng học chữ cùng cha – giấy trắng rải đầy đất. Mực đã khô, từng hàng nét chữ rõ ràng, đều là tên nàng: Dung Nương. Mặt ta bỗng nóng lên, giơ tay lau mới hay mình đã khóc. A nương, đường xuống cõi âm xin người cứ thong thả bước. Phụ thân nhất định… sẽ đến rất nhanh thôi. -Hoàn- Mỗi lượt theo dõi, yêu thích hay bình luận của bạn chính là động lực quý giá giúp team Sen không ngừng mang đến những bộ truyện hay mỗi ngày. Cảm ơn bạn thật nhiều nhiều vì đã luôn đồng hành và ủng hộ Sen Trắng Nở Muộn! 💖