“Ta cũng chẳng muốn xuống núi đâu, dưới đó có những người ta chẳng muốn gặp lại.” Đã mở lời rồi nên ta cũng chẳng giấu diếm gì, đem chuyện bị Cao Bân và thân nhân ruồng bỏ kể tuốt ra. A Văn ban đầu chỉ lặng lẽ lắng nghe. Một lúc sau, nó mới nhẹ giọng thổ lộ tâm sự: “Thật ra ta không phải con ruột của phụ thân, là ông nhặt ta về.” “Ta sinh ra ở Vạn Hoa Lâu.” Một câu nói như sấm nổ bên tai khiến bước chân ta khựng lại. “Mẫu thân ta hận ta, cũng hận người khiến bà ấy sinh ra ta.” “Bà ấy muốn bóp chết ta khi ta vừa chào đời. Nhưng một đại nương nấu ăn trong lâu đã cứu ta.” “Nhưng hễ bà ấy không vừa ý chuyện gì thì lại nhớ đến ta, rồi kéo đám tỷ muội đến đánh đập ta.” “Lúc ta ba tuổi đã bị đánh đến da tróc thịt bong, thoi thóp thở.” “Đại nương không đành lòng, bèn đưa ta ra khỏi Vạn Hoa Lâu và giao lại cho phụ thân.” Một đứa trẻ còn chưa biết nói tròn câu, vốn phải được cưng chiều nâng niu lại bị chính thân mẫu cầm đầu tra tấn. Nếu không gặp được A Mãnh, e rằng trên đời này đã chẳng còn một A Văn. Loại nữ nhân ấy… thật đáng giận! Ta xoa đầu nó, nói: “Giờ đệ đã có phụ thân và ta, không ai dám bắt nạt đệ nữa đâu.” A Văn khẽ gật đầu, tựa như vô thức mà đồng ý. Chúng ta vừa nói vừa đi, chẳng mấy chốc đã tới chợ. Lâu ngày không thấy cảnh tượng nơi đây, ta bỗng có phần bối rối. Chúng ta tìm một góc yên tĩnh, bày vải ra nửa ngày mà chẳng ai hỏi mua. Sắp đến giờ trưa, không bán được thì khó mà về kịp, ta đành gói lại đống vải, trực tiếp tìm đến các cửa hiệu. Mấy hiệu vải đều nằm ở nơi náo nhiệt phồn hoa, ta không muốn đi ngang qua nhà thân mẫu hay Cao gia nên dẫn A Văn vòng đường xa mà đến. “Ông chủ, ông có mua mấy tấm vải này không?” Ông chủ lười nhác ngẩng đầu nhìn chúng một cái, hờ hững nói: “Năm văn.” Ta hỏi lại: “Năm văn một tấm?” Ông ta cười giễu: “Ngươi nói đùa gì thế? Năm văn mua hết đống kia đấy.” Ta cảm thấy bị xúc phạm, liền ôm lấy đống vải quay người bỏ đi. Mới bước ra khỏi hiệu vải, ta chưa kịp rẽ sang chỗ khác thì đã đụng phải một vị phu nhân sang trọng. “Phu nhân cẩn thận!” Ta liên tục cúi người xin lỗi: “Xin lỗi, xin lỗi…” Ngẩng đầu lên nhìn, người đứng cạnh vị phu nhân kia - chính là Cao Bân, tên tiền phu của ta. “A Dung? Ngươi… ngươi vẫn chưa chết sao?” Ta trợn mắt lườm hắn: “Ngươi vẫn còn chưa chết, ta sao dám chết trước.” Cao Bân nghẹn họng, luống cuống nói: “A Dung, ta không có ý đó…” Ta chẳng buồn để tâm đến hắn, kéo A Văn đi thẳng một mạch. 13 Phu nhân Cao Bân nói với ông chủ tiệm vải lúc nãy: "Nàng ta đến đây làm gì?" Chưởng quầy đáp: "Thưa phu nhân, bọn họ đến bán vải." Nàng ta nghe thế liền quát lớn: "Đứng lại! Đem vải của ngươi đến đây, bản phu nhân muốn xem thử." Ta lạnh lùng đáp: "Ta không muốn bán cho các người, cũng không muốn để các người xem.” Ta khinh không thèm làm cái loại mua bán nhục nhã này. Huống hồ, ta rất mực tin tưởng với vải do mình dệt ra nên không sợ không có người mua. Phu nhân của Cao Bân lại nói: "Trả ngươi mười văn một xấp, ta toàn bộ mua hết." Ta khựng lại, không nhịn được mà thu hồi bước chân. "Thành giao." Nàng ta cười khẩy: "Nhưng bản phu nhân có điều kiện, ngươi phải quỳ xuống trước mặt mọi người, dập đầu xin lỗi, nói rằng năm xưa ngươi không nên gả cho Cao Bân." Ta bật cười thành tiếng: "Được thôi. Chờ ngươi chết rồi, ta sẽ đến trước mộ ngươi mà quỳ, chúc ngươi sớm được về miền cực lạc." Nàng ta giận đến nỗi gào thét sau lưng, chẳng còn giữ nổi vẻ đoan trang quý phái. Ta ôm xấp vải trong lòng, không ngoái đầu lại mà rảo bước bỏ đi. Chỗ này không mua thì thôi, ta không tin cả con phố dài toàn là hiệu vải này lại chẳng ai chịu nhận hàng của ta. Ta vừa đi vừa hậm hực, chẳng ngờ lại bước tới trước cửa Vạn Hoa Lâu từ lúc nào. A Văn đứng bên ngập ngừng, không dám tiến lên. Đúng lúc không có chỗ phát tiết, ta xoay người đưa bọc vải cho nó, giọng gay gắt hỏi: "Nữ nhân tên là gì?" A Văn đáp khẽ: "Hải Đường." Ta xoay người, hùng hổ phóng thẳng vào Vạn Hoa Lâu, lớn tiếng gọi vang: "Hải Đường đâu rồi!" Mụ tú bà và lũ kỹ nam lập tức lao ra ngăn ta, ta như người phát điên, vừa vùng vẫy tránh né vừa gào lên: “Hải Đường! Ngươi ra đây cho ta!” Tú bà mất kiên nhẫn mắng: “Ở đâu ra mụ điên thế này! Chỗ ta làm gì có ai tên Hải Đường!” Nghe vậy, ta sững người, quay sang hỏi một vòng các cô nương và khách làng chơi đang hóng chuyện: “Nơi này thật sự không có người nào tên Hải Đường sao?” Có một phụ nhân lớn tuổi dè dặt đáp: “Trước đây từng có một nữ nhân tên Hải Đường, nhưng ba năm trước mắc bệnh hoa liễu mà chết rồi.” Câu đó khiến ta đứng lặng tại chỗ một hồi, nhưng nghe tin tiện nhân ấy có kết cục như vậy, ta vẫn không nhịn được mà phá lên cười. Cười xong vẫn thấy chưa hả dạ, ta lật tung mấy chiếc bàn ghế trong đại sảnh, rồi vội vã bỏ trốn trước khi bị bắt lại. Ta lao ra khỏi Vạn Hoa Lâu, chạy như bay về phía đầu ngõ nơi A Văn đang đợi. Ta thở hổn hển nói: “Đi mau!” Hai người chúng ta chạy thẳng vào một con hẻm vắng, thở đều rồi ta mới nhìn A Văn nói: “Đại thù đã báo, khúc mắc trong lòng đệ có thể buông xuống rồi.” A Văn kinh hoảng lùi lại hai bước, dè dặt hỏi: “Tỷ giết bà ta rồi à?” Ta phá lên cười, đưa tay xoa đầu nó: “Không cần ta ra tay, trời đã xử lý nàng ta rồi.” A Văn âm thầm thở phào nhẹ nhõm, vẻ căng thẳng trên gương mặt cũng giãn ra ít nhiều. 14 Tâm tình u uất trong lòng ta cũng tan biến, ta dẫn A Văn tiếp tục đi bán vải, rốt cuộc cũng bán hết tại cửa hiệu thứ tư với giá tám văn một tấm. Lấy được tiền, ta tiện tay thưởng cho A Văn mười văn, bảo nó mua gì mình thích. Còn ta thì vội vã đến hàng gạo mua lương thực. Cuối cùng chúng ta cũng về đến nhà trước khi mặt trời lặn. Bốn người cùng ăn cơm với trứng gà và thịt khô kho, tâm trạng tốt khiến ta ăn thêm nửa bát cơm nữa. Từ sau hôm ấy, A Văn cũng không còn phản kháng chuyện xuống núi nữa. Những ngày sau, cứ cách vài hôm chúng ta lại xuống núi bán vải, bán trứng gà, bán mấy món đồ da do ta khâu vá. Cuộc sống đơn giản nhưng đầy đủ.