13. Niềm hân hoan chưa kịp lắng xuống, chúng ta lập tức bị thực tại gõ một cái thật đau vào đầu. Không bao lâu nữa, sẽ tới kỳ điện thí. Lần này phải diện thánh – diện kiến đích thân thiên tử. Từ xưa tới nay, không thiếu kẻ sĩ dù tài học kinh người nhưng lại thất thố nơi điện đường. Có kẻ tâm lý bạc nhược, đứng trước long nhan mà lắp bắp không thốt nên lời. Cũng có kẻ tâm khí quá thẳng, ăn nói vô ngại, lời lẽ không tránh va chạm khiến lòng quân thượng bất duyệt, cuối cùng bị chỉ tới những châu quận hoang vu, đường làm quan mịt mờ, công danh một đời mai một. Ta và chàng ngồi bên đèn bạc, suy tính trăm bề, vẫn chẳng thể đoán được ý chỉ của quân vương. Rốt cuộc, hôm diễn thánh, đề thi mà hoàng thượng ban ra lại đơn giản đến không ngờ: "Luận ngữ có viết: 'Phụ mẫu tại, bất viễn du' – Cha mẹ còn sống, không nên đi xa. Đây là lời dạy chí hiếu. Nhưng giả như quốc gia đang trong thời loạn, ngoài có cường địch chực chờ, trong có bách tính cơ cực, khi ấy triều đình triệu gọi, mà phụ mẫu lại tuổi cao sức yếu, lệnh ông bà không muốn rời con – Vậy nếu là ngươi, ngươi sẽ lựa chọn điều chi? Là ở lại phụng dưỡng cha mẹ, vẹn đạo làm con? Hay là bỏ tiểu gia, vì đại nghĩa, đáp ứng thiên triều, lấy trung làm đầu?" Chúng thần ai nấy đều bối rối. Không ai ngờ bệ hạ lại đưa ra một vấn đề vừa gần gũi vừa sắc bén đến vậy. Chàng – Lâm Thanh Tuyền – sau một thoáng nhắm mắt tĩnh tâm, liền cầm bút, dứt khoát viết bài luận. Có kẻ nóng vội cầu công, chưa kịp nghĩ suy đã vội vàng chọn lấy con đường xả thân vì nước. Cũng có kẻ khôn khéo hơn, đáp rằng nguyện vì cả gia và quốc. Lâm Thanh Tuyền vừa trải qua chuyện nhận thân, lòng dạ vẫn còn nhiều cảm xúc, liền viết một bài luận dài, lời lẽ dạt dào chân thành: “Đối với người thân cận bên mình còn chưa đủ chân tình, thì sao có thể nói đến một lòng vì lê dân trăm họ?” Hà đại học sĩ ở Hàn Lâm Viện – nửa coi như thầy dạy chàng – vốn từng thấy chàng ngày ngày theo công tử Tiêu phủ đến dự giảng, lúc này vừa thấy hoàng thượng chỉ liếc qua bài thi của chàng rồi gạt qua một bên, liền lộ vẻ tiếc nuối không nỡ. Giây phút ấy, trong đầu Lâm Thanh Tuyền như hiện ra từng địa danh heo hút nơi sơn cùng thủy tận, tưởng rằng nửa đời về sau, chàng sẽ bị biếm ra ngoài đó sống đời khổ cực. Nào ngờ, hoàng thượng đọc hết các bài luận, chỉ riêng bài của chàng là được ngợi khen. Nguyên lai, thánh thượng vốn sinh ra từ một cung nữ ở Ti Giặt, sau được đưa tới bên hoàng hậu nuôi dưỡng. Năm ấy, khi còn là tam hoàng tử, người từng trấn giữ Bắc cương hai năm. Giữa lúc khói lửa biên thùy chưa dứt, hay tin thân mẫu bệnh nặng, người ngày đêm phi ngựa trở về, cuối cùng vẫn muộn một bước, chỉ còn lại một nấm mồ lạnh lẽo. Sau khi giành được ngôi báu, năm đầu đăng cơ, thánh thượng sắc phong hậu cung, nhưng trong mắt thiên hạ, chỉ có thái hậu – mẫu của hoàng hậu, còn ai đâu nhớ tới người sinh ra ngài. Nỗi niềm ấy, chôn sâu trong lòng hoàng đế, chẳng dễ mà thổ lộ. Có kẻ từng khéo léo moi ra chuyện xưa để viết bài lấy lòng, mô phỏng lòng trung hiếu của hoàng đế, nhưng càng ra vẻ tâng bốc, lại càng làm tổn thương lòng người. Một câu hỏi tưởng như thử tâm, hóa ra lại trở thành tấm gương phản chiếu tâm can. Trong cả vạn người dự thí, hoàng thượng chỉ thấy bài của Lâm Thanh Tuyền là đồng điệu nhất, liền hạ bút phong chàng làm Trạng nguyên. Vì cảm khái lòng hiếu thảo của chàng, hoàng thượng còn ban phong cho bà nhạc – mẹ nuôi của chàng – tước hiệu Trinh Từ phu nhân, ban phủ đệ, thưởng vàng bạc châu báu. Từ đó, có thánh chỉ rõ ràng, nhà họ Trần cũng không còn mặt mũi nào đến quấy nhiễu nữa. Thánh thượng còn đặc biệt phái Thái y đến chẩn trị cho đôi mắt của bà.   14. Một thời gian sau, thánh chỉ cuối cùng cũng ban xuống. Lâm Thanh Tuyền được bổ nhiệm chức Tu soạn tại Hàn Lâm Viện, chức vụ tuy không cao, nhưng lại là con đường chính quy, ổn định. Từ xưa đã có câu: “Phi Hàn Lâm, bất nhập nội các.” Nay chàng bước chân vào Hàn Lâm, mai sau tự sẽ có ngày bước vào triều trung chấp chính, công danh mở rộng, tiền đồ xán lạn. Lẽ ra, ta phải vui mừng vì chàng đạt được thành tựu này. Nhưng không hiểu vì sao, trong lòng ta chỉ thấy chật chội bức bối như thể bị nhốt giữa bốn bức tường vách, hít thở chẳng thông. Lại thêm ngoài kia lời ra tiếng vào không ngớt, ai cũng nói ta vốn chỉ là nữ tử quê mùa, từng làm nghề mổ lợn, xuất thân thấp hèn, sánh vai cùng Lâm Thanh Tuyền chỉ tổ khiến người khác chê cười. Chàng hễ thấy ta xếp áo gấp khăn là hốt hoảng, vội nắm lấy tay áo ta mà hỏi: “Nhạn nhi muốn đi đâu?” Ta miễn cưỡng cười gượng, chẳng nói chẳng rằng. Về sau thấy ta đã không còn rạng rỡ như trước, chàng liền mời Tiêu công tử đến phủ yến ẩm. Tiêu công tử chẳng hổ là người từng kèm cặp Thanh Tuyền ôn tập trước kỳ thi – tuy chưa đậu Trạng nguyên hay Bảng nhãn, nhưng cũng được xếp tên vào bảng vàng, đỗ tiến sĩ. Lần này cùng đến còn có vị hôn thê của chàng – Thẩm Nguyệt Bạch, nữ nhi của Thẩm thượng thư. Chớ nhìn Thẩm cô nương da trắng môi hồng mà lầm, nàng là người thẳng thắn, sảng khoái. Vừa tới nơi, nàng đã nắm lấy tay ta cười bảo: “Tỷ tỷ ơi, nói cho muội nghe đi, bên ngoài kinh thành trông thế nào?” Ta bèn kể cho nàng nghe chuyện núi non trập trùng nơi ngoại thành, kể chuyện phụ thân từng bị hàm oan, kể chuyện ta ngày trước ở chợ bán rau múa dao mổ lợn, vung vẩy loang loáng chẳng ai dám lại gần. Thẩm Nguyệt Bạch nghe mà mắt sáng bừng bừng: “Sau đó thì sao?” Sau đó ư? Là ta và Lâm Thanh Tuyền dùng một miếng thịt dính đầy máu để định thân. Là một khúc xương mắc ngang cổ khiến bà nương nhà chàng trố mắt trợn trừng. Là cùng nhau dắt díu lên kinh thành, theo đòi đèn sách, cay đắng gian lao đủ đầy. Nguyệt Bạch lúc này chẳng còn cười nổi nữa, nàng khẽ lau khóe mắt: “Chẳng trách mọi người đều nói Lâm đại nhân là người trọng tình trọng nghĩa. Một người tốt như tỷ tỷ, đáng được chàng hết lòng đối đãi.” Nàng lại nắm tay ta nói tiếp: “Tỷ tỷ chớ để tâm lời ong tiếng ve ngoài kia, sau này nếu dự yến tiệc nào, cứ việc theo ta mà tới, có ta che chở cho tỷ!” “Muội sinh ra trong chốn quyền quý, những lời đâm chọc gió bay ấy nghe quen tai rồi. Đừng tưởng các phu nhân trong thành ai nấy đều tao nhã đoan trang, kỳ thực cái miệng thì rộng hơn cả lưng quần, chỉ thích bới móc dèm pha. Ta mà gặp, lần nào cũng đấu cho tới cùng.” Lâm Thanh Tuyền và Tiêu công tử đứng bên thấy chúng ta nói chuyện vui vẻ cũng phấn khởi vô cùng. Chẳng ngờ Tiêu công tử đột nhiên cảm khái: “Hôm ấy biểu mẫu mời huynh vào phủ, ta còn tưởng huynh đã đắc tội gì khiến biểu ca nổi giận. Gã dắt không ít thủ hạ ra đứng chực ngoài cổng, tay còn cầm bao bố, dọa ta phải chạy về nhà xin phụ thân cử thêm người phòng bị.” “Huynh thì an nhiên bước ra, còn ta thì về nhà bị phụ thân đánh cho một trận nên thân, lại còn bị nhốt trong từ đường mấy ngày liền đó!” Ta và Lâm Thanh Tuyền đưa mắt nhìn nhau, trong mắt đều hiện lên vẻ kinh hãi. Ta thật sự khâm phục rồi, không ngờ mẹ con nhà họ Trần lại cùng có chung một sở thích—bắt người nhét bao bố! Tội nghiệp Tiêu công tử, một mảnh chân tình dành cho Lâm Thanh Tuyền, quả thật là vô tâm mà lại được hữu tình đáp lại. Tình nghĩa như thế, về sau ta và chàng sao có thể không đích thân tới Tiêu phủ bái tạ một phen?   15. Hai năm sau, chúng ta đã ổn định ở kinh thành, mọi việc đều diễn tiến theo đúng quỹ đạo. Chỉ là phụ thân ta dường như không thể ngồi yên được nữa. Lâm Thanh Tuyền từ lâu đã đem số bạc năm xưa mượn phụ thân ta trả lại đầy đủ, lại còn tặng thêm không ít để phụ thân tiêu dùng tùy ý. Nhưng ta biết, người nhớ quê, bởi ở Thanh Châu huyện, vẫn còn có người khiến người bận lòng. Nghe tin quê nhà phát sinh dịch bệnh, Phương di—người năm xưa cùng chúng ta sống chung trong một con ngõ—đã lâm bệnh nặng. Phụ thân ta giống như mũi tên rời dây cung, vừa hay tin đã chẳng thể đợi thêm một khắc. Lâm Thanh Tuyền liền thượng tấu xin chỉ, dẫn theo người từ Dược Cục trở về quê, hỗ trợ chống dịch. Năm năm xa cách, khi quay về, quê nhà đã đổi khác. Ngõ cũ, phố xưa chẳng còn, cây liễu đầu thôn cũng chẳng biết đã bị đốn từ bao giờ. Ta rảo bước đến giếng làng, múc một gáo nước, rồi bắt lấy một con mèo hoang gầy quắt đang nép ở chân tường, ép nó uống. Chưa đầy một khắc, con mèo đã sùi bọt mép lăn quay. “Quả nhiên là nước đã nhiễm độc…” Mẫu thân của chàng, mắt đã hồi phục phần nào, nay có thể phân biệt mờ mờ bóng người, được ta dìu đi quanh nhà. Hễ ai hỏi, bà đều vui vẻ đáp lại, ánh mắt mang theo tia sáng ấm áp hiếm có. Phương di thì vẫn chưa thật sự bình phục, những năm tháng khổ nhọc đã để lại nơi khóe mắt bà thêm vài nếp nhăn, thần thái chẳng còn sắc bén như xưa, mà lại mang vẻ hiền hòa, ôn nhu. Trận ôn dịch lần này may nhờ có Tiểu Mãn cùng Điền đại phu ra tay cứu chữa kịp thời nên không lan rộng khắp vùng. Cả đoàn chúng ta lập tức lao vào công việc bận rộn. Ở cửa chợ, ta cùng dân chúng dựng bếp lớn, ngày ngày sắc thuốc. Phương di được Tiểu Mãn chăm sóc tận tình, nay bệnh đã gần như hồi phục hoàn toàn. Bà nhất quyết không cho ta và bà nhạc (mẫu thân chàng) bước ra khỏi phòng nửa bước. Bà bảo: “Thân thể các người yếu nhược, nhỡ đâu lại nhiễm bệnh thì nguy mất.” Hừm, yếu nhược ư? Ta đây từng vác được con heo nặng ba trăm cân đi cả một đoạn đường, lại bảo yếu sao? Nhưng khi thấy phụ thân ta vừa nói vừa xua tay, mặt còn ửng đỏ: “Không sao đâu, có ta ở đây. Thân thể ta cường tráng, độc khí gặp ta còn phải né ba phần!” – Thôi được rồi, yếu thì yếu vậy. Mỗi ngày thuốc phòng dịch vừa sắc xong, Phương di lại bưng ra ba bát lớn cho phụ thân ta uống cạn. Người uống ngon lành như đang nhấm rượu quý. Dịch bệnh lắng xuống, đã là đầu xuân năm sau. Cũng có lẽ bởi được trở về quê hương, lòng ta cùng Lâm Thanh Tuyền đều thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Đến cuối tháng Hai, ta phát hiện bản thân… đã mang thai. Chàng vui mừng tới cực điểm, ôm ta xoay một vòng, lại hôn ta liên tục. Tiểu Mãn sợ tới mức suýt đánh rơi ấm thuốc trong tay, vội la lớn: “Ôi trời ơi! Sư phụ của ta ơi, người nhẹ nhàng một chút! Thai nhi trong bụng sư nương đấy ạ!” Sau lễ khai trương của tửu lâu – nơi Phương di và Tiểu Mãn cùng nhau mở ra tại khu sầm uất nhất trong thành – chúng ta chuẩn bị hồi kinh. Phụ thân ta không biết đã chuẩn bị từ lúc nào, râu ria cạo sạch, y phục mới tinh, dáng điệu… có phần không tự nhiên. “Phụ thân, người định đi đâu vậy?” Người cười ha hả, lại có phần ngượng ngùng: “Chỉ là... đưa chút quà mừng thôi.” Ta liếc nhìn, khẽ cười: “Chỉ là đưa chút quà mừng thôi sao?” Phụ thân gãi đầu, bộ dáng vốn hào sảng nay lại trở nên lúng túng: “Vậy... ta còn phải nói gì nữa?” Ta hỏi phụ thân: “Vậy giờ ta hỏi phụ thân một câu—người còn muốn theo chúng ta trở lại kinh thành nữa chăng?” Phụ thân phất tay một cái, đáp gọn lỏn: “Không đi! Ở cái nơi đó mà ở thêm nữa, ta thành mốc meo mất thôi!” Ta đứng phía sau vỗ mạnh lên lưng người, cười ha hả: “Vậy thì nói thẳng cho dứt khoát, người hỏi Phương di xem, có muốn lấy trượng phu hay không là được rồi!” Một câu đơn giản đến thế, vậy mà phụ thân ta cứ ú a ú ớ, nói mãi chẳng nên lời. “Phương... Phương nương, nàng có muốn… ông chủ không?” Rồi lại lắc đầu tự phủ nhận: “Không đúng, không đúng… Phương nương, nàng có muốn… lấy đầu bếp không? Ta biết làm đủ món hết đó!” Phương di đứng bên rèm nghe đến không nhịn được nữa mà bật cười. Trời ơi, cái ông cha ngốc nghếch của ta, làm ta tức đến nghiến răng nghiến lợi. May sao, Phương di cũng chẳng chê trách gì, chỉ nhẹ nhàng vén rèm lên, giọng mang ý cười mà bảo: “Cao đại ca, vào nhà đi thôi…” -Hoàn- Mỗi lượt theo dõi, yêu thích hay bình luận của bạn chính là động lực quý giá giúp team Sen không ngừng mang đến những bộ truyện hay mỗi ngày. Cảm ơn bạn thật nhiều nhiều vì đã luôn đồng hành và ủng hộ Sen Trắng Nở Muộn! 💖