10. Có lẽ là bị Tống Trường An làm cho dao động, ta ngồi suốt một đêm trước ánh đèn dầu mà không chợp mắt, rồi cũng nghĩ thông suốt mọi chuyện. Sáng hôm sau, ta liền đến tìm Thôi Hằng, nói rằng ta muốn tiếp tục ở lại bên cạnh chàng để hầu hạ. Chàng mỉm cười hỏi ta lý do, mà ta thì không trả lời. Còn có thể vì điều gì nữa chứ? Đại khái là vì giường gác đêm quá êm, tiền công mỗi tháng lại hậu hĩnh, hoặc giả là… Chủ nhân mà ta phụng sự, quá đỗi nhân hậu. Dĩ nhiên, lý do lớn nhất vẫn là vì sợ. Sợ sau này sẽ không còn gặp được chủ tử tử tế, càng sợ phải gặp kẻ không ra gì. Và điều khiến người ta sợ nhất… chính là gặp phải chủ nhân không coi kẻ hầu như người. Vào tháng thứ hai sau khi tới Tây Hoa Sơn an dưỡng, thương thế ở chân của chàng đã khỏi được bảy tám phần. Thầy thuốc nói, ngoài công hiệu của suối nước nóng, còn có công lao mỗi ngày ta đều đặn xoa bóp cho chàng. Phần bệnh cũ còn sót lại, nếu cứ tiếp tục ngâm suối cũng chẳng còn hiệu quả, chi bằng đến nơi nào bốn mùa như xuân, khí hậu ôn hòa để tĩnh dưỡng thì hơn. Chỉ vì chuyện này, Chấp Kỳ đã vò đầu bứt tai, lục lọi toàn bộ địa lý bản đồ chín châu mới chọn ra được một nơi — Lĩnh Nam. Bốn mùa ôn hòa, lại có hoa trái dồi dào, quả thật là chốn an dưỡng tuổi già lý tưởng. Thế nên, sáng hôm sau, chúng ta liền khởi hành đi Lĩnh Nam. Nào ngờ lại trùng hợp như vậy, giữa đường lại gặp thuyền nhà họ Tống đang đi tìm danh y. Người chèo thuyền là một bà lão hay chuyện, nói dăm ba câu đã kể hết chuyện riêng tư của chủ nhân mình không sót một chữ. Thì ra là Tống Trường An tái phát bệnh cũ, lần này họ đi xa chính là để cầu y tìm thuốc. Tiện thể, cũng muốn tìm một thị nữ hiền lành, cẩn thận, ngày đêm chăm sóc kề cận. Dù sao thì vị tiểu thư họ Vương kia, cũng đã thu dọn hành lý, sớm sớm trở về nhà mẹ đẻ từ hai hôm trước rồi. Lúc bước lên thuyền, chàng nghiêng mắt nhìn ta một cái. Tựa như lo ta lại mủi lòng. Có điều chàng không biết, cái gọi là nghĩa tình giữa ta và Tống Trường An, đã sớm chôn vùi trong bát cơm trắng năm nào rồi. Từ nay non sông vạn dặm, ta cũng chẳng vì y mà ngoảnh đầu lấy một lần. Người chèo thuyền là một phụ nhân phúc hậu, nghe nói trong thuyền có người bị bệnh, còn cẩn thận mang cả lò sưởi đến cho chúng ta sắc thuốc. Làn nước lấp loáng dưới ánh tà dương, mùi thuốc cũng theo gió lan xa. Cũng vào lúc ấy, chàng rốt cuộc đã trả lời câu hỏi mà năm đó, khi ta mới đến hầu hạ, từng khẽ khàng thốt lên. Rằng: Giữa thiên hạ nhiều người như vậy, vì cớ chi, công tử lại nhất định phải chọn ta? “Sở dĩ chọn nàng, là bởi năm năm trước, khi ta dưỡng thương ở Tây Hoa Sơn, từng gặp một tiểu cô nương.” “Nàng ấy nói, dẫu đời người chẳng thể viên mãn, cũng phải dốc hết sức mà tiến về phía trước, tuyệt không thể tự mình buông bỏ.” “Nàng còn nói, nếu không vì phân thân vô thuật, nhất định sẽ nhận lấy phần nguyệt ngân của ta.” “Cho nên về sau, ta liền đi tìm nàng... để nàng đến lĩnh phần nguyệt ngân ấy.” Khóe môi chàng khẽ cong, nụ cười ôm đầy hàm ý khó lường. Mà ta, giữa sóng nước chòng chành, bất giác cũng nhớ lại chút chuyện xưa cũ. Năm đó ta theo Tống Trường An lên núi dưỡng bệnh, quả thực từng gặp một vị công tử nhỏ tuổi, dường như đã nói với ta những lời như vậy. Chỉ là ta chưa từng nghĩ, người ấy lại chính là chàng – Thôi Nhị công tử năm ấy. Thế gian này có lẽ vốn nhỏ bé như vậy. Lời hứa thốt ra trong lúc vô tình, lại có thể lặng lẽ thành toàn sau bao lần vòng quanh nhân duyên. Đúng lúc ấy, một cơn gió nhẹ thổi qua, liễu mảnh bên bờ cũng theo gió mà lay động. Ta ngẩng đầu nhìn lên. Ánh dương mai dịu dàng chiếu rọi qua tầng mây mỏng, nghĩ rằng… ngày mai, trời sẽ sáng, mà lòng người… cũng sẽ dần ấm lại.   11. Phiên ngoại Năm thứ ba kể từ ngày đến Lĩnh Nam, Thôi Hằng cuối cùng cũng thành thân. Đêm tân hôn, chàng mới kể lại những chuyện xưa cho ái thê tóc còn thơm mùi kết tóc. “Người ta thường nói, đêm vắng nghe chuyện xưa mới thấy muôn phần thi vị. Ta cũng có một câu chuyện, nàng muốn nghe chăng?” Tân nương khẽ gật đầu. Thôi Hằng mới mỉm cười kể rằng: “Người đời đều nói họ Thôi ở Thanh Hà, phú quý vô biên, thanh quý tuyệt luân. Nhưng khi còn nhỏ, ta cũng từng trải qua những tháng ngày cùng khổ.” “Năm ấy ta mới tám tuổi, cùng huynh trưởng cưỡi ngựa trong trường thao luyện. Huynh ấy một kiếm chém đứt dây cương, khiến ta ngã ngựa, gãy chân.” “Mẫu thân mời vô số y quan, vậy mà vết thương vẫn hóa thành căn bệnh cũ. Ai nấy đều bảo: Thôi gia có hai giao long, từ nay về sau chỉ còn một con bay lượn giữa trời, còn một con chỉ có thể bò sát dưới đất, đến rắn cỏ cũng chẳng bằng.” “Thời ấy, mẫu thân ngày nào cũng khóc, phụ thân thì ngày nào cũng tiếc hận, còn huynh trưởng... lại quỳ bên giường ta, cầu xin ta thứ lỗi. Nàng có đoán được khi đó ta nghĩ gì không?” Tân nương trầm ngâm, rồi đáp: “Nghĩ đến chuyện báo thù.” Thôi Hằng bật cười, lắc đầu: “Khi ấy, ta chỉ nghĩ: Phụ thân rõ ràng biết huynh ấy phạm sai, cớ sao không trách phạt? Mẫu thân biết rõ huynh ấy cố ý, vậy mà vì sao lại không hề oán giận?” “Năm ấy ta còn nhỏ tuổi, chỉ ngỡ rằng phụ mẫu thiên vị, sau này lớn dần lên mới hiểu ra... sự tình không phải vậy.” “Bởi vì ta đã bị thương ở chân, nên huynh trưởng liền trở thành nam đinh duy nhất trong tộc họ có khả năng ra chiến trường lập công danh. Mà trong thế gia đại tộc, tranh đấu vốn dĩ tàn khốc như thế. Sau khi nghĩ thông suốt, trong lòng ta lại nảy sinh ý muốn giết huynh.” “Thế nhưng, về sau bệnh chân của ta ngày càng nghiêm trọng, mẫu thân dần mất kiên nhẫn, phụ thân thì cảm thấy ta đã khiến họ Thôi mất mặt, lời nói trong ngoài đều thúc ép ta dọn ra phủ khác sống. Khi ấy, huynh trưởng lại một lần nữa xuất hiện.” “Huynh ấy thay ta mua nhà, sắm sửa đầy đủ gia nhân, thậm chí còn quỳ hai gối nơi nội đường, cúi đầu nhận lỗi. Huynh nói khi đó chỉ là nhất thời hồ đồ, tuyệt không có ý muốn lấy mạng ta.” “Vậy nàng đoán, khi ấy ta nghĩ gì?” Tân nương đáp khẽ: “Nghĩ đến tha thứ?” Thôi Hằng bật cười, lắc đầu: “Lần này thì thật sự muốn báo thù rồi... chỉ tiếc ông trời chẳng cho ta cơ hội đó.” “Chỉ ba tháng sau, huynh ấy đã chết nơi chiến trường phương Bắc. Thôi thị song giao, cuối cùng cũng chỉ còn lại một con rồng tàn tạ không thể bay.” “Ta vốn tưởng rằng sau khi huynh trưởng chết đi, bản thân sẽ thấy thỏa nguyện vô cùng... thế nhưng không, tâm tình lại càng thêm sa sút. Mà càng sa sút thì bệnh tật lại càng trầm trọng.” “Lúc bệnh nặng nhất, hai đầu gối ta lở loét đến mức không thể đứng dậy, thế là... trong lòng lại dâng lên ý muốn kết thúc mạng sống.” “Nhưng hôm ấy, ta gặp một tiểu cô nương. Nàng thấy ta đứng bên vách núi, tưởng rằng ta muốn gieo mình tự tận, liền nhào tới, đè ta lăn qua mấy sườn đồi.” “Khi ấy, ta thật muốn nói với nàng rằng: ta không định nhảy núi, chỉ là muốn hóng gió lần cuối trước khi chết. Nhưng nàng đâu có nghe, suýt nữa thì đè ta đến tắt thở.” “Nàng có biết lúc ấy ta nghĩ gì không?” Tân nương nghe chàng nhắc lại chuyện xưa mang đôi phần thân mật, có chút không vui, chu môi nói: “Hẳn là đang oán trách nàng ta phá hỏng kế hoạch của chàng chứ gì?” Cố Hằng lại bật cười: “Tất nhiên là không phải.” Tân nương tò mò hỏi: “Vậy chàng nghĩ gì?” “Ta nghĩ... sao cô nương ấy lại mềm như chiếc mâm bạc thế này, áp người xuống thật là vừa khéo...” “Chàng... chàng thật to gan, dám đem chuyện ấy ra trêu ta!” Tân nương nhào tới, hai người đùa giỡn một hồi, bóng dáng gợi lại năm nào nơi núi Tây Hoa. Thôi Hằng ôm lấy thê tử đang hờn giận, nhẹ giọng dỗ dành: “Được rồi, được rồi, là phu quân lỗ mãng.” “Chỉ là... ta đoán cũng chẳng sai, ai bảo nàng khi ấy... lại mang cái tên là ‘Minh Nguyệt’ chứ.” Ngoài hiên, ánh trăng thanh vắt chiếu rọi hai người đang tựa sát bên nhau. Nến hồng cháy cạn, váy mỏng trút xuống. Lúc ấy, Lý Minh Nguyệt mới thật sự hiểu rõ câu chữ từng được chép trong thư phòng của chàng: “Ta đã sớm dâng lòng mình lên ánh trăng. May thay, ánh trăng ấy lại chiếu rọi xuống dòng Thanh Khúc.” Thì ra tất cả... đều là duyên phận đã được sắp đặt từ lâu. Trên đời này, có đôi thứ tình cảm, tuy đến muộn, nhưng rốt cuộc... vẫn sẽ đến. -Hoàn-