“Tỷ đã bao giờ thực sự nhìn rõ địa vị của mình trong nhà họ Kiều chưa?” “Lúc bị Lục Kính Nghiêm hành hạ, ngày ngày khóc lóc đòi hòa ly, cha mẹ đã từng cho tỷ được sắc mặt tử tế nào chưa?” “Giờ đây vì sự lạnh nhạt của cha mẹ, Lục Kính Nghiêm lại càng được nước làm tới, càng thêm coi thường tỷ — không phải thế sao?” Sắc mặt đích tỷ lúc sáng lúc tối, cuối cùng cũng chìm vào im lặng. Cuộc đối thoại giữa ta và nàng, không có người thứ ba biết. Kể từ ngày hôm đó, người trong kinh thành dần nhận ra — phu nhân trạng nguyên hình như thay đổi tính tình. Trở nên ôn hòa, khiêm nhường hơn nhiều, thậm chí còn chủ động giúp trượng phu chọn người nạp thiếp. Thoạt nhìn, đôi vợ chồng này như thật sự đã trở lại vẻ hòa hợp thuở mới thành thân. Thế nhưng… khi phu nhân trạng nguyên vừa có vẻ “ổn định”, thì trạng nguyên lang lại bất ngờ mắc trọng bệnh. Ngày ngày nóng sốt, mồ hôi đầm đìa, eo mỏi chân mềm, nằm bẹp trên giường không dậy nổi. Trong thành bắt đầu rộ lên lời đồn: Lục trạng nguyên vì quá phóng đãng, trụy lạc quá độ mà làm tổn hại nguyên dương, khí huyết suy kiệt đến căn cơ. Còn đích tỷ thì ngày đêm không rời bên giường bệnh, tự tay sắc thuốc đút từng muỗng canh. Ngày nào cũng đến miếu dập đầu ba lần chín lạy, hương khói không ngừng, còn bỏ ra rất nhiều tiền làm công đức. Danh tiếng “hiền thê lương mẫu” của nàng rất nhanh đã lan truyền khắp kinh thành. Chỉ tiếc rằng, chẳng bao lâu sau, Lục Kính Nghiêm vẫn không qua khỏi. Ngày xuất tang, đích tỷ khóc đến ngất xỉu, suýt chút nữa đập đầu vào quan tài mà chết theo. Chuyện này đến tai Hoàng hậu, bà cảm thán thương xót, ban cho nàng phong hiệu mệnh phụ. Tin tức là do Phó Húc kể lại cho ta nghe. Gần đến ngày lâm bồn, ta đã không còn ra ngoài nhiều nữa. Hắn vừa giúp ta xoa dầu dưỡng bụng bầu, vừa vừa kể chuyện, đến cuối lại đột ngột hỏi: “Nếu đổi lại là nàng ở vị trí của Kiều Trân Châu, nàng sẽ làm thế nào?” Ta thành thật đáp: “Nếu là ta… chắc chắn sẽ không làm được như nàng ấy. Ta vốn ngốc hơn nàng rất nhiều.” Phó Húc lại bật cười: “Đó là vì nàng chưa từng có một người tỷ muội tốt bụng nào chỉ dẫn cho.” Ta khựng lại, chạm phải ánh mắt thâm thúy mà mang đầy ý cười của hắn — lúc ấy ta mới hiểu, hóa ra những cuộc gặp gỡ bí mật giữa ta và tỷ tỷ, từ đầu đến cuối đều không lọt khỏi mắt vị đại tướng quân này. Về sau, nghe nói đích tỷ thường xuyên lui tới phủ họ Kiều, mãi đến khi phụ thân và kế mẫu lần lượt tỏ ý mong nàng — một vị phu nhân được ban phong hào — có thể “giúp đỡ” các huynh đệ trong nhà. Từ đó, nàng dần dần cũng ít lui tới phủ Kiều hơn hẳn. Một hôm, ta mang lễ vật về thăm tổ mẫu. Nghe bà thở dài than trách rằng: Kiều Trân Châu giờ đây chẳng còn hiếu thuận như xưa nữa. Ta nhất thời không biết nên đáp lại thế nào cho phải. Chẳng bao lâu sau, đích tỷ rời khỏi kinh thành. Tin cuối cùng ta nhận được từ nàng là một phong thư, nói rằng nàng định an cư tại vùng Giang Nam, buôn bán làm ăn nho nhỏ. Ta hồi thư, chỉ viết một câu: Chúc tỷ mai này thuận buồm xuôi gió. — Ngày con gái ta chào đời, phủ tướng quân rộn rã tiếng cười, niềm vui ngập tràn từ trên xuống dưới. Phó Thiên thì khỏi nói, còn tranh giành với các vú em, đòi bế muội muội. Nó vỗ ngực, ánh mắt sáng rực đầy kiêu hãnh, bảo với ta: “Con lớn rồi! Nhất định sẽ chăm chỉ học hành, luyện võ thật tốt, làm gương cho muội muội noi theo!” Ta và Phó Húc nhìn nhau, cùng bật cười — tiểu tổ tông này, cuối cùng cũng bắt đầu hiểu thế nào là trách nhiệm của một người ca ca rồi. Phủ tướng quân có thêm một tiểu thư, Phó Húc lập tức sai người tuyển thêm một nhóm nha hoàn, sai vặt vào phủ. Một hôm, ta tình cờ nghe thấy Tiểu Thúy đang dạy bảo đám tân nhân: “Làm người hầu, điều quan trọng nhất là phải trung thành! Sau đó là tay chân nhanh nhẹn, đặc biệt cấm kỵ nói nhiều bàn tán linh tinh. Nếu không thì…” Một tiểu nha đầu tò mò hỏi: “Nếu không thì sao ạ?” Tiểu Thúy nghiêm mặt đáp: “Nếu không thì sao à? Nếu không thì phu nhân sẽ đem các ngươi đi… cho hổ ăn đấy!” Đám tiểu nha đầu tuổi còn nhỏ, nghe xong sợ đến mức tái mặt, nhốn nháo như ong vỡ tổ. Tiểu Thúy lúc ấy mới cười ha hả, vỗ tay nói chỉ là dọa họ cho vui: “Phu nhân của chúng ta rất tốt! Nhất định là phu nhân tốt nhất trong cả kinh thành đấy!” Ta cũng bật cười — thì ra con bé lại lấy mấy lời ta từng thuận miệng đùa giỡn với nó, quay ra hù dọa người khác. Chỉ có điều… ta năm xưa, vốn không hề nói chơi. Những người như Xuân Cầm đã từng phản bội ta, cuối cùng không ai có được kết cục tốt đẹp. Chuyện nhỏ thế này, cũng chẳng cần nói với một nha đầu thật thà như Tiểu Thúy. Lại một mùa xuân nữa tới. Ta bế con gái trong lòng, cùng Phó Húc và Phó Thiên — một nhà bốn người — lên đường đến chùa Linh Sơn cầu phúc. Khi đi đến dưới gốc hoè lớn treo đầy dải lụa đỏ nguyện ước, Phó Húc đột nhiên quay đầu nhìn ta, nhẹ giọng hỏi: “Minh Châu, nàng còn nhớ ngày đầu tiên chúng ta gặp nhau không?” Ta còn chưa kịp trả lời, thì Phó Thiên đã vội chen vào: “Con nhớ! Con nhớ rõ lắm! Cha vừa nhìn thấy mẫu thân là đơ người luôn! Lúc ấy trong lòng con còn thầm khinh bỉ cha, nghĩ: cái người được ca tụng không gần nữ sắc nơi quân doanh hóa ra cũng chỉ đến thế thôi!” Phó Húc đưa tay gõ nhẹ lên trán con trai một cái, bật cười: “Ta không phải bị sắc đẹp của mẫu thân con mê hoặc…” “Vài tháng trước khi thành thân, ta từng đến chùa Linh Sơn cầu phúc cho bệ hạ. Khi đi ngang qua gốc hoè này, có một dải lụa đỏ rơi xuống. Ta nhặt lên xem, lại thấy bên trong là một bức vẽ nhỏ — nét vẽ một thiếu nữ.” Vừa nói đến đây, hắn khẽ liếc sang ta một cái, ánh mắt ngượng ngùng nhưng tràn đầy dịu dàng. Ta kinh ngạc hỏi: “Trên mảnh lụa đỏ ấy… có phải còn viết một câu: ‘Chỉ mong lòng chàng như lòng thiếp, chẳng phụ nỗi tương tư’?” Phó Húc cũng vội vàng gật đầu: “Đúng rồi! Chính là câu đó! Lẽ nào… thật sự là của nàng sao? Hôm ấy ta nhìn thấy nàng, cảm thấy có nét rất giống, nhưng lại nghĩ chắc chỉ là trùng hợp thôi!” Mặt ta đỏ bừng, nhẹ giọng đáp: “Là của ta thật… Trước ngày thành thân, ta đã đến đây cầu nguyện cho nhân duyên, Hy vọng sau này có thể cùng phu quân thấu hiểu lẫn nhau, tâm ý tương thông…” “Vậy thì lời nguyện ấy xem như đã linh nghiệm rồi.” Phó Húc bật cười. “Sau khi nhặt được, ta còn treo lại mảnh lụa đó lên cây. Biết đâu… bây giờ nó vẫn còn ở trên ấy.” Phó Thiên nghe xong liền phấn khích, nhất quyết đòi trèo lên cây tìm bằng được mảnh lụa năm xưa. Phó Húc cũng chiều theo, hai cha con — một lớn một nhỏ — cùng nhau leo lên cây, ngốc nghếch tìm kiếm giữa những dải lụa đỏ phấp phới. Ta bật cười, ánh mắt dịu dàng rơi xuống gương mặt nhỏ xinh trong lòng, nhẹ nhàng đùa nghịch với con gái. “Thật ra… trên đời làm gì có nhiều sự trùng hợp như vậy, đúng không, bảo bối?” Đứa bé trong tã lót tất nhiên chẳng hiểu gì những lời ta đang nói. Năm ấy, sau khi xác định bản thân sẽ gả cho Phó Húc, ta đã sớm dựa vào ký ức kiếp trước, lặng lẽ đợi trước ở chùa Linh Sơn. Khi tướng quân Phó đi ngang qua gốc hoè, ta đã lựa gió mà thả mảnh lụa đỏ xuống. Từng bước, ta nhìn hắn cúi người nhặt lên. Nhìn hắn ngẩn ngơ trước bức họa chân dung thiếu nữ trên vải. Đợi đến khi nhận ra cô dâu định mệnh kia lại chính là người trong tranh — thử hỏi, sao hắn có thể không tin đó là duyên trời sắp đặt? Đời người, mười phần thì đã có tám chín phần chẳng như ý. Nhưng nếu đã có thể dụng tâm toan tính, thì sao không cố bù lại sáu bảy phần viên mãn? Suy cho cùng… kiếp này, ta là người hạnh phúc.